Vào thời điểm hiện tại, học thuyết này đã gần như cố định và không còn quá nhiều tranh cãi, do vậy theo dấu chân các quan tòa tìm ra lý luận từ đầu đến gần cuối không quá nhiều suy tư. Vấn đề cốt yếu vẫn là phải tìm hiểu nhiều tài liệu.
Quan tòa trong vụ án Pawsey v Scottish Union & National Insurance Company (1908) định nghĩa nguyên nhân gần như sau:
the active and efficient cause that sets in motion a train of events which brings about a result, without the intervention of any force started and working actively from a new and independent source.
Đây là định nghĩa đầu tiên và nổi tiếng nhất về học thuyết này. Định nghĩa này đã được hai dịch giả nổi tiếng trong làng bảo hiểm VN Bùi Thị Kim Quy, và Nguyễn Thị Kim Loan từ thập niên 90 đã dịch trong quyển bảo hiểm nguyên lý và thực hành mà hầu hết trong các thư viện tại các công ty bảo hiểm đều có. Tôi không có quyển sách này trong tay để tham chiếu. Tuy nhiên, bản dịch này bám quá sát vào bản tiếng Anh nên ngữ nghĩa vẫn chưa nêu hết được ý đồ tác giả. Tôi xin chỉnh lại một chút như sau:
Nguyên nhân gần là nguyên nhân tích cực đủ sức gây ra sự vận hành một chuỗi các sự cố dẫn đến một kết quả không bị một lực từ bên ngoài nào can thiệp vào, mà lực ấy có nguồn gốc độc lập, mới, phát sinh và hoạt động tích cực.
Như vậy, khái niệm gần ở đây phải hiểu theo nghĩa rộng hơn. Nguyên nhân tích cực gây ra một chuỗi sự cố. Ví dụ một trận động đất nhỏ gây nứt đường ống gas, xì gas, trong một căn phòng có một gia đình đang ngủ. Nếu căn cứ trên ngôn từ nguyên nhân gần, ta có thể lầm tưởng nguyên nhân gia đình trên tử vong là do hít khí gas trong khi ngủ. Trái lại theo định nghĩa pháp lý, nguyên nhân gần sẽ phải là động đất. Vì động đất đã tạo ra một chuỗi các sự cố liên tục không có lực bên ngoài can thiệp.
Vậy tại sao không dùng khái niệm trực tiếp thay cho gần. Rất nhiều tài liệu tiếng Việt dịch là nguyên nhân trực tiếp thay vì nguyên nhân gần. Vì gần và trực tiếp khá giống nhau về nghĩa, khái niệm trực tiếp là khái niệm hán việt rất trí tuệ và học thuật. Trực là thẳng, tiếp là tiếp xúc. Khái niệm trực tiếp là gắn thẳng vào sự cố. Do vậy dựa vào ví dụ trên nguyên nhân trực tiếp của gia đình kia tử vong là hít phải khí gas còn nguyên nhân gần theo định nghĩa pháp lý là động đất. Về mặt ngữ nghĩa "gần" là một khái niệm khá tương đối, người đi máy bay thấy 1000km là gần, trong khi người đi bộ thấy 100km là quá xa vời. Do vậy, việc đưa ra khái niệm nguyên nhân gần trong pháp luật là điều cần thiết.
Trường hợp NĐBH mua đơn bảo hiểm tai nạn cá nhân cho các môn thể thao mạo hiểm, đơn này không bảo hiểm chết do viêm phổi. NĐBH tham gia học cưỡi ngựa có người hướng dẫn chuyên nghiệp. Anh ta bị ngã từ trên xuống do không kiểm soát được, từ đó bị sốc, khủng hoảng tinh thần, thần kinh không điều khiển được cơ thể nên mắc chứng đái dầm, do nằm điều trị dài ngày trên giường ẩm ướt dẫn đến viêm phổi và chết vì viêm phổi. Công ty bảo hiểm từ chối do nguyên nhân tử vong là viêm phổi nguyên nhân không được bảo hiểm. Tòa phán rằng, đây là một chuỗi sự cố liên tục mà nguyên nhân gần của nó là ngã ngựa được bảo hiểm.
Trường hợp động đất gây cháy nhà A, cháy lan sang nhà B. Nhà B có mua bảo hiểm cháy. Tuy nhiên, bất động sản này tọa lạc tại Jamaica. Đơn bảo hiểm cháy ở Jamaica loại trừ động đất. Sự cố nguyên nhân gần được tòa hiểu là động đất bị loại trừ nên B không được bồi thường.
Định nghĩa trên đã chỉ ra khá cụ thể tình huống một chuỗi sự cố, sự cố đầu tiên sẽ là nguyên nhân gần trong trường hợp chuỗi sự cố không bị gián đoạn bởi một nguồn mới. Nếu nguyên nhân ấy được bảo hiểm, người được bảo hiểm sẽ được bồi thường, nếu không, NĐBH đành chịu rủi ro. Giả sử trường hợp có nguồn mới độc lập xảy ra can thiệp vào chuỗi sự cố nói trên thì nguyên nhân gần là cái gì. Định nghĩa này rõ ràng thiếu sót.
Ví dụ em A châm ngòi một quả pháo và dúi vào tay em B. Em B có hốt hoảng nhưng nhanh trí nhét ngay vào tay em C. Em C không có thời gian ném pháo đi bị nổ trên tay và rách lòng bàn tay phải đi khâu. Nếu hiểu đơn giản theo định nghĩa trên, em A là người gây nguyên nhân gần. Tuy nhiên giả sử em B, không ác ý nhét quả pháo vào tay em C, mà ném pháo đi, thì quả pháo sẽ nổ và không ai bị hại.
Như vậy lỗi gây rách tay cho em C có một phần của em B. Mặc dù em A lỗi gây ra cháy quả pháo là có ác ý gây tổn thương em B. Em B mặc dù biết nguồn nguy hiểm có thể ném đi ngay, nhưng lại dúi vào tay em C tức là cũng có ác ý. Nếu áp dụng định nghĩa trên vào trường hợp này chắc chắn không ổn.
Trường hợp khác. Một căn nhà được thợ thi công trần nhà hơi ẩu, chủ nhà vẫn sống yên ả cho đến một ngày có một chiếc xe do tài xế lái xe ẩu tông vào nhà. Do có sự chấn động, miếng thạch cao rơi xuống trúng đầu chủ nhà. Rõ ràng nếu người thi công không ẩu, thì miếng thạch cao kia không rơi xuống, và ngược lại nếu tài xế không ẩu thì đã không đụng vào nhà. Định nghĩa trên không lý giải được nguyên nhân do tài xế ẩu, hay nguyên nhân do thi công ẩu.
Có rất nhiều ví dụ khác. Chẳng hạn người đi xe đạp vô ý tông vào người đi bộ, anh này bị ngã, lúc đứng dậy loạng choạng dẫm vào chân một con chó và bị cắn. Hay trường hợp xe tông vào nhà gây vỡ kính, nửa đêm kẻ trộm thấy kính vỡ liền lẻn vào nhà hành hung chủ nhà.
Vậy, giải quyết các tình huống này thế nào cho thỏa đáng?
Trở lại đặt vấn đề ban đầu. Ngành bảo hiểm có 4 nguyên tắc quan trọng. Bất cứ ai sống trong ngành cũng phải thuộc lòng bốn nguyên tắc này và ứng xử với khách hàng, đối tác, đều giống nhau, không phân biệt. Và khách hàng cũng phải tôn trọng các nguyên tắc này. Ở bất kỳ nước nào, nếu bốn nguyên tắc không được tôn trọng, ngành bảo hiểm sẽ suy kiệt, dậm chân tại chỗ và lạc hậu.
Nguyên tắc trung thực tuyệt đối, nguyên tắc đóng góp bồi thường, nguyên tắc thế quyền bồi thường, nguyên tắc nguyên nhân gần.
Bản chất của bảo hiểm là sự đóng góp của một nhóm vào một quĩ để bảo an tài chính cho cá thể không may trong nhóm. Do đặc tính này, các thành viên của nhóm phải cùng một chí hướng, thật thà gắn kết với nhau, đùm bọc hỗ trợ nhau. Người quản lý quĩ là công ty bảo hiểm. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối nói nên bản chất của ngành. Nguyên tắc thế quyền bồi thường, đóng góp bồi thường đảm bảo cho việc bồi thường là đúng mức không vượt quá giá trị tài chính của tổn thất cho thành viên trong nhóm, đảm bảo người này không được phép hưởng lợi trên đồng tiền đóng góp xương máu của người khác. Nguyên tắc nguyên nhân gần, để xác định nguyên nhân của tổn thất có nằm trong ý chí của nhóm được bồi thường, bồi thường đến đâu.
Định nghĩa của học thuyết nguyên nhân gần xúc tích tương đối đầy đủ để giái quyết vấn đề của vụ án. Tuy nhiên, gặp một số các trường hợp phức tạp hơn. Định nghĩa này có vẻ chưa đủ sức để giải quyết.
Một số ví dụ khác như sau. Nhân viên tàu điện ngầm A cố nhồi hành khách B vào tàu trước khi tàu đóng cửa. B ủn mạnh C gây ra một gói hành lý của D từ trên rơi xuống. Trong hành lý có pháo, một quả pháo văng ra phát nổ làm E bị chảy máu chân. Đây là chuỗi sự cố bị ngắt quãng bởi một sự cố khác. Rõ ràng là gói hành lý của D là sự kiện làm biến đổi chuỗi sự kiện. Nếu D không mang pháo vào hành lý thì E đã không bị thương. Hơn nữa hành vi ủn hành khách vào tàu điện ngầm là hành vi tương đối phổ biến tại Nhật.
Một người đi bộ bị xe đạp đâm phải và té ra đường. Một xe tải tới gần và cua xe tránh người đi bộ bị té. Trên xe chở 1 cây đàn Piano không được buộc chặt, đàn trượt xuống làm người đi bộ gãy chân. Đây cũng là chuỗi bị ngắt quãng bởi việc hành lý không buộc chặt vào thùng xe của lái xe tải.
Chiếu theo định nghĩa ta sẽ rất khó xác định đâu là nguyên nhân gần
Rõ ràng, định nghĩa nguyên thủy của học thuyết tuy cô đọng, xúc tích nhưng khá mơ hồ khi gặp các trường hợp phức tạp như đã nêu. Do vậy cần phải có một số các qui tắc chung để giải quyết cụ thể. Đây có thể nói là các qui tắc bổ sung cần thiết gắn liền với định nghĩa nguyên thủy.
Một số ví dụ khác như sau. Nhân viên tàu điện ngầm A cố nhồi hành khách B vào tàu trước khi tàu đóng cửa. B ủn mạnh C gây ra một gói hành lý của D từ trên rơi xuống. Trong hành lý có pháo, một quả pháo văng ra phát nổ làm E bị chảy máu chân. Đây là chuỗi sự cố bị ngắt quãng bởi một sự cố khác. Rõ ràng là gói hành lý của D là sự kiện làm biến đổi chuỗi sự kiện. Nếu D không mang pháo vào hành lý thì E đã không bị thương. Hơn nữa hành vi ủn hành khách vào tàu điện ngầm là hành vi tương đối phổ biến tại Nhật.
Một người đi bộ bị xe đạp đâm phải và té ra đường. Một xe tải tới gần và cua xe tránh người đi bộ bị té. Trên xe chở 1 cây đàn Piano không được buộc chặt, đàn trượt xuống làm người đi bộ gãy chân. Đây cũng là chuỗi bị ngắt quãng bởi việc hành lý không buộc chặt vào thùng xe của lái xe tải.
Chiếu theo định nghĩa ta sẽ rất khó xác định đâu là nguyên nhân gần
Rõ ràng, định nghĩa nguyên thủy của học thuyết tuy cô đọng, xúc tích nhưng khá mơ hồ khi gặp các trường hợp phức tạp như đã nêu. Do vậy cần phải có một số các qui tắc chung để giải quyết cụ thể. Đây có thể nói là các qui tắc bổ sung cần thiết gắn liền với định nghĩa nguyên thủy.
• Nếu rủi ro được bảo hiểm và rủi ro không được bảo hiểm cùng hoạt động, nguyên nhân gần là rủi ro được bảo hiểm
• Nếu rủi ro được bảo hiểm và rủi ro loại trừ cùng hoạt động, nếu không phân tách được thiệt hại từ các rủi ro trên, rủi ro bị loại trừ là nguyên nhân gần
• Nếu tổn thất phát sinh từ chuỗi sự cố, sự cố cuối cùng là nguyên nhân gần, trừ khi chuỗi này liên tục và sự cố cuối chỉ là một mắt xích nằm trong chuỗi liên tục đó
Án lệ đã đưa ra một số các quy tắc như trên nhằm làm rõ hơn khái niệm nguyên nhân gần với ba qui tắc bổ sung nêu trên.
Từ câu chữ trong các án lệ các công ty bảo hiểm đã đúc kết công thức cụ thể căn cứ trên sự cố được bảo hiểm, sự cố không được bảo hiểm và sự cố loại trừ. Ví dụ trong đơn bảo hiểm hỏa hoạn chỉ mua điều kiện A. Sự cố được bảo hiểm là cháy nổ sét đánh, Sự cố không được bảo hiểm là lụt, động đất. Sự cố loại trừ là lên men, tự bốc cháy. Trong đơn bảo hiểm mọi rủi ro, các công ty bảo hiểm đã khôn khéo sát nhập sự cố được bảo hiểm và sự cố không được bảo hiểm thành một, và đơn giản chỉ có 2 loại sự cố, sự cố loại trừ và sự cố được bảo hiểm.
Theo chiều khác, nguyên nhân gần căn cứ trên 4 kiểu sự cố. Kiểu một sự cố duy nhất, kiểu chuỗi sự cố liên tục, kiểu sự cố gián đoạn, và kiểu hai hoặc ba sự cố phát sinh đồng thời.
Một sự cố A gây thiệt hai A' Nếu sự cố A là sự cố được bảo hiểm, A' được bồi thường, nếu A không được bảo hiểm hoặc loại trừ, A' không được bồi thường
Chuỗi sự cố liên tục ABC gây ra thiệt hại A'B'C' trong đó A là sự cố được bảo hiểm, B là sự cố không được bảo hiểm, và C là sự cố bị loại trừ, A'B' được bồi thường.
Chuỗi ABC, A là sự cố bị loại trừ, đơn bảo hiểm bị từ chối
Chuỗi ABC, A không được bảo hiểm, B được bảo hiểm, C loại trừ, B' được bồi thường
Chuỗi ABC bị D gây gián đoạn, nếu D được bảo hiểm, D' và các tổn thất sau D được bồi thường
AB phát sinh cùng lúc gây thiệt hại nếu tổn thất có thể qui kết đều cho từng nguyên nhân AB, đơn bảo hiểm sẽ trả cho phần tổn thất được bảo hiểm
AB phát sinh cùng lúc tạo ra 1 tổn thất không thể phân chia, nếu một trong hai bị loại trừ, đơn bảo hiểm bị từ chối. Nếu một trong hai được bảo hiểm, tổn thất được bồi thường.
Kiến thức bảo hiểm - Doãn Quỳnh Trang
Từ câu chữ trong các án lệ các công ty bảo hiểm đã đúc kết công thức cụ thể căn cứ trên sự cố được bảo hiểm, sự cố không được bảo hiểm và sự cố loại trừ. Ví dụ trong đơn bảo hiểm hỏa hoạn chỉ mua điều kiện A. Sự cố được bảo hiểm là cháy nổ sét đánh, Sự cố không được bảo hiểm là lụt, động đất. Sự cố loại trừ là lên men, tự bốc cháy. Trong đơn bảo hiểm mọi rủi ro, các công ty bảo hiểm đã khôn khéo sát nhập sự cố được bảo hiểm và sự cố không được bảo hiểm thành một, và đơn giản chỉ có 2 loại sự cố, sự cố loại trừ và sự cố được bảo hiểm.
Theo chiều khác, nguyên nhân gần căn cứ trên 4 kiểu sự cố. Kiểu một sự cố duy nhất, kiểu chuỗi sự cố liên tục, kiểu sự cố gián đoạn, và kiểu hai hoặc ba sự cố phát sinh đồng thời.
Một sự cố A gây thiệt hai A' Nếu sự cố A là sự cố được bảo hiểm, A' được bồi thường, nếu A không được bảo hiểm hoặc loại trừ, A' không được bồi thường
Chuỗi sự cố liên tục ABC gây ra thiệt hại A'B'C' trong đó A là sự cố được bảo hiểm, B là sự cố không được bảo hiểm, và C là sự cố bị loại trừ, A'B' được bồi thường.
Chuỗi ABC, A là sự cố bị loại trừ, đơn bảo hiểm bị từ chối
Chuỗi ABC, A không được bảo hiểm, B được bảo hiểm, C loại trừ, B' được bồi thường
Chuỗi ABC bị D gây gián đoạn, nếu D được bảo hiểm, D' và các tổn thất sau D được bồi thường
AB phát sinh cùng lúc gây thiệt hại nếu tổn thất có thể qui kết đều cho từng nguyên nhân AB, đơn bảo hiểm sẽ trả cho phần tổn thất được bảo hiểm
AB phát sinh cùng lúc tạo ra 1 tổn thất không thể phân chia, nếu một trong hai bị loại trừ, đơn bảo hiểm bị từ chối. Nếu một trong hai được bảo hiểm, tổn thất được bồi thường.
Đề tài này có thể nói là không thể nói hết được nếu cứ tập trung vào tình huống cụ thể. Vì cứ mỗi năm, án lệ quốc tế về bảo hiểm cũng vài chục vụ và hầu như lúc nào cũng có vấn đề liên quan đến học thuyết này. Tất cả các loại hình bảo hiểm đều phải vận dụng học thuyết này khi xảy ra tranh chấp. Sau khi đưa ra một số các gạch đầu dòng về cách giải quyết theo thuyết này, chắc chắn người đọc vẫn chưa hình dung cụ thể được bản chất của học thuyết. Càng nêu vụ án, người đọc càng mệt mỏi và ngán ngẩm với chữ nghĩa. Do vậy, may mắn là tôi đã có được một số công thức theo các sơ đồ dưới đây để độc giả có thể nghiền ngẫm.
Như đã nêu trong bài trước, có 2 chiều phân tích, 1 liên quan đến chuỗi sự cố và 1 liên quan đến loại rủi ro được, không được bảo hiểm và loại trừ.
Nhờ vào các sơ đồ dưới đây, độc giả có thể tự giải quyết được tất cả các ví dụ trong phần đầu tiên tôi đã giới thiệu mà không cần giải thích nhiều
Sơ đồ 1 mô tả một sự cố duy nhất gây hậu quả thiệt hại vật chất. Sơ đồ này quá dễ và không cần phải giái thích
Sơ đồ 2 mô tả cách giải quyết Chuỗi sự cố liên tục
Sơ đồ 3 mô tả cách giải quyết chuỗi sự cố gián đoạn
Sơ đồ 4 mô tả cách giải quyết các sự cố xảy ra đồng thời hoặc có sự tương tác của các sự cố mà thiếu một trong các sự cố đó, sẽ không có tổn thất.
Kiến thức bảo hiểm - Doãn Quỳnh Trang




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét