Bài viết này chỉ phục vụ 1 câu hỏi của độc giả.
Có bạn đọc hỏi về thế nào là nguyên nhân chính, nguyên nhân quan trọng, tiếng anh có khá nhiều từ main cause, effective cause, efficient cause, dominant cause, active cause v.v những cụm từ này chủ yếu tập trung vào một khái niệm là nguyên nhân chính. Nguyên nhân thực sự gây hậu quả.
Nguyên nhân chính là một khái niệm trong định nghĩa nguyên nhân gần nhưng không đủ để trở thành nguyên nhân gần. Định nghĩa nguyên nhân gần là an active and efficient cause that sets in motion of a train of events which brings about a result.... Như vậy định nghĩa đã cụ thể hóa ngay khái niệm nguyên nhân chính nằm trong định nghĩa của mình. Điều này có thể hiểu là các nguyên nhân phụ, nguyên nhân không quan trọng không được tính đến khi xem xét nguyên nhân của một tổn thất hay thiệt hại.
Trong ví dụ lái xe đâm vào xe phía trước thắng gấp dừng đèn đỏ. Sự kiện thắng gấp của xe phía trước là nguyên nhân hoàn toàn vô nghĩa. Lý do là đến đèn đỏ anh ta phải dừng lại. Người lái xe phải luôn luôn trong tình trạng tỉnh táo và hoàn toàn làm chủ phương tiện của mình đối với tín hiệu giao thông. Xe đằng sau đâm vào xe trước lỗi hoàn toàn. Nguyên nhân chính ở đây là lái xe sau đã không làm chủ tốc độ khi có tín hiệu giao thông.
Để phân biệt giữa nguyên nhân chính và phụ, một câu hỏi kiểm tra sẽ được đặt ra như sau: Nếu không có sự kiện A hay B, tổn thất có thể xảy ra hay không? Trường hợp trên, nếu không có sự kiện xe trước thắng gấp, người lái xe sau có tông lên phía trước hay không? Rõ ràng nếu không có xe đằng trước, người lái xe sau vẫn tông thẳng lên phía trước và nguy hiểm hơn, anh ta có thể gây tai nạn với xe chiều đèn xanh.
Tuy nhiên nếu trường hợp trên, giả sử người lái xe trước thắng gấp do tránh xe máy quẹo trái bất ngờ không bật đèn tín hiệu. Vần đề trở nên khác hoàn toàn. Ở đây ta phải xét thêm yếu tố xe máy quẹo trái bất ngờ. Đây cũng là nguyên nhân chính nguyên nhân chủ lực. Lý do là nếu không có sự kiện quẹo trái bất ngờ, xe trước sẽ không thắng gấp, và xe sau cũng không đụng vào xe trước. Đồng thời, do không làm chủ tốc độ, xe sau đã đâm vào xe trước. Hai thiệt hại này hoàn toàn độc lập với nhau và có hai nguyên nhân. Tuy nhiên thiệt hại xe hơi tông nhau có hai nguyên nhân đồng thời. Theo luật Việt nam người lái xe sau lỗi hoàn toàn vì anh đã không làm chủ tốc độ trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Ví dụ nổi tiếng, một chiếc tàu bị ngư lôi đánh lủng một lỗ to. Nó cố chạy về đến cảng và neo tại đó chờ sửa chữa. Một cơn sóng to đưa qua và nó chìm. Công ty bảo hiểm lý luận rằng tàu chìm do sóng đánh và không bồi thường. Tòa bác đơn, cho rằng sóng là hiện tượng phổ biến. Bất kỳ một chiếc tàu nào thiết kế ra cũng phải có khả năng chịu được sóng biển và do vậy đây là nguyên nhân không quan trọng. Nguyên nhân tàu chìm là bị ngư lôi oánh.
Giả sử tàu bị ngư lôi oánh nhưng chỉ hỏng một khoang, tàu về giữa đường gặp bão, và bị một cơn sóng dọc oánh gãy đôi tàu. Vấn đề hoàn toàn khác. Một chiếc tàu đủ khả năng đi biển chưa chắc đã chịu nổi vài cơn sóng dọc. Thường thì điều này phải phụ thuộc vào trình độ của người lái tàu tránh sóng dọc thế nào. Và do tàu đã bị hư hỏng nên khả năng điều khiển tàu của lái tàu trở nên hạn chế hơn. Dẫn đến tình huống bị sóng oánh gãy đôi.
Nguyên nhân chính chỉ là một yếu tố cấu thành của nguyên nhân gần. Đây là yếu tố để loại bỏ các sự kiện không cần thiết khi xem xét nguyên nhân một sự cố. Bài kiểm tra đưa ra rất cụ thể là nếu không có yếu tố này, tổn thất vẫn xảy ra hay nó sẽ không xảy ra. Nếu nó vẫn xảy ra, nguyên nhân đó là nguyên nhân không đáng xem xét. Nếu tổn thất không xảy ra, nguyên nhân đó trở nên quan trọng.
Chia sẻ kiến thức bảo hiểm, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, quản lý rủi ro và một số các vấn đề khác của bảo hiểm phi nhân thọ
Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013
Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013
Bất động sản được bảo hiểm trong đơn gián đoạn kinh doanh
Qui tắc chuẩn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đòi hỏi
điều kiện tiên quyết là có thiệt hại đối với tài sản thuộc sở hữu hoặc quyền sử
dụng của doanh nghiệp tại bất động sản được bảo hiểm. Nếu có thiệt hại vật chất
đối với các tài sản này, đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sẽ được kích hoạt
(điều kiện này được gọi là điều kiện thiệt hại vật chất, Material damage
proviso). Khi đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã được kích hoạt bằng một thiệt
hại vật chất tại bất kỳ một địa điểm nào được bảo hiểm, thiệt hại gián đoạn
kinh doanh được bảo hiểm sẽ tính trên toàn bộ doanh nghiệp có nghĩa là nó không
chỉ giới hạn đối với thiệt hại gián đoạn kinh doanh riêng tại địa điểm xảy ra
thiệt hại vật chất.
Có rất nhiều đơn bảo hiểm không đưa ra định nghĩa bất
động sản được bảo hiểm. Và nếu có định nghĩa thì cũng đơn giản là nêu danh sách
các địa chỉ địa điểm trong bản danh mục bảo hiểm. Một số đơn liệt kê địa chỉ được
bảo hiểm, số khác tệ hơn, chỉ ghi chung chung là tất cả các cư sở của người được
bảo hiểm trên thế giới.
Khái niệm Bất động sản tọa lạc trong đơn gián đoạn
kinh doanh là một khái niệm tách rời với khái niệm tòa nhà được định nghĩa
trong đơn thiệt hại vật chất.
Vấn
nạn
Điều kiện kích hoạt đơn gián đoạn kinh doanh là thiệt
hại vật chất tại bất động sản tọa lạc.
Trường hợp người được bảo hiểm hoạt động tại một khu
vực lớn, khu sản xuất chính, văn phòng và các khu vực phụ cận, đường xá, hạ tầng.
Hầu hết các đơn, không cụ thể hóa bất động sản tọa lạc chỉ bao gồm các tòa nhà
hay là bao gồm các công trình phụ đường xá hạ tầng cho đến hết khuôn viên khu vực
của doanh nghiệp được bảo hiểm. Trong khi khái niệm tương tự được định nghĩa
khá rõ trong đơn thiệt hại vật chất.
Trường hợp tại một địa điểm, có nhiều doanh nghiệp
hoạt động ví dụ như tòa nhà văn phòng. Đơn gián đoạn kinh doanh cũng không nêu
rõ bất động sản tọa lạc là khu vực thuê của người được bảo hiểm hay là toàn bộ
tòa nhà hay là toàn bộ khu vực nằm trong tường rào khuôn viên bao gồm cả tòa
nhà.
Hậu quả là nếu một sự cố phát sinh tại bãi đậu xe của
tòa nhà, hoặc bất kỳ khu vực chung của một tòa nhà văn phòng, bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh cho một người thuê văn phòng có thể không được bồi thường nhưng công
ty bảo hiểm có thể bị kiện.
Vấn đề này cũng phát sinh ngay đối với điều khoản bổ
sung về hư hỏng hạ tầng, hoặc điều khoản cản trở lối vào.
Trong đơn bảo hiểm có yêu cầu về nghĩa vụ của người
được bảo hiểm trong việc dọn dẹp vệ sinh vận chuyển rác thải ra khỏi bất động sản
tọa lạc. Vấn đề cũng phát sinh là việc vận chuyển rác thải đến đâu được coi là
ra khỏi bất động sản tọa lạc. Chuyển rác ra khỏi văn phòng, chuyển rác ra khỏi
tòa nhà, hay chuyển rác ra khỏi khuôn viên.
Định nghĩa bất động sản tọa lạc là các địa chỉ cụ thể
trong bản danh mục bảo hiểm thì tốt hơn. Nhưng xét về giác độ kinh doanh, điều
kiện này bó tay người được bảo hiểm trong việc phát triển các cư sở kinh doanh
của mình. Và sự cố phát sinh ngay sau khi người được bảo hiểm mua thêm một địa
điểm mới sẽ không có giá trị kích hoạt đơn bảo hiểm.
Trường hợp có một nhóm các công ty có mối quan hệ
kinh doanh liên kết chắt chẽ với nhau mặc dù không trực thuộc một tập đoàn sẽ
không được bảo hiểm theo một chương trình bảo hiểm duy nhất cho toàn nhóm.
Hậu
quả
Không có định nghĩa rõ ràng, công ty bảo hiểm có
toàn quyền suy diễn theo ý đồ của mình căn cứ trên từ ngữ trong đơn. Hậu quả là
người được bảo hiểm có thể hiểu sai phạm vi bảo hiểm của đơn, đặc biệt là khi họ
thích thay đổi công ty bảo hiểm. Phức tạp hơn khi đơn bảo hiểm chính sử dụng một
khái niệm và điều khoản bổ sung sử dụng một khái niệm khác.
Trường hợp có bảo hiểm cho các sự cố đối với phần
bên ngoài tòa nhà, vườn, hàng rào và các tài sản ngoài trời khác, khả năng bảo
hiểm dưới giá trị cũng phát sinh khi thiết kế đơn bảo hiểm. Và điều này ảnh hưởng
lên đơn gián đoạn kinh doanh.
Trường hợp các tài sản ngoài trời bị thiệt hại, khả
năng thiệt hại này không được coi là điều kiện kích hoạt đơn gián đoạn kinh
doanh.
Việc áp dụng Điều khoản bổ sung cản trở lối vào,
gián đoạn hạ tầng cũng có thể gây nhiều tranh cãi nếu sự cố xảy ra trong khuôn
viên khu vực nhưng bên ngoài tòa nhà.
Một trường hợp cụ thể một khiếu nại ước ban đầu 11
triệu đô la Mỹ. Điều khoản bảo đảm đòi hỏi người được bảo hiểm phải vận chuyển
rác thải ra khỏi bất động sản tọa lạc thường nhật. Rác thải được cho vào gói và
chuyển ra bên ngoài tòa nhà, và để cạnh hàng rào bên trong khuôn viên hàng ngày
và sau đó được chuyển ra khỏi khu vực 1 tuần 1 lần. Cháy xảy ra do một cậu bé đốt
lửa bên ngoài một thùng rác cách tòa nhà 10 mét, gió thổi lửa về phía tòa nhà,
và làm tòa nhà cháy rụi.
Theo đơn gián đoạn kinh doanh, khái niệm bất động sản
tọa lạc không phân định cụ thể là tòa nhà hay là tất cả các khu vực khác nằm
trong khuôn viên. Nếu khái niệm bất động sản tọa lạc được hiểu là tòa nhà, người
được bảo hiểm đã tuân thủ đúng theo điều kiện của đơn về vận chuyển rác thải và
đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được kích hoạt và công ty bảo hiểm có trách
nhiệm bồi thường. Nếu khái niệm bất động sản tọa lạc bao gồm toàn bộ các khu vực
khác trong khuôn viên, người được bảo hiểm đã vi phạm cam kết và công ty bảo hiểm
miễn trách.
Giải
pháp
Đơn bảo hiểm nên xác định khái niệm bất động sản tọa
lạc cụ thể là toàn bộ khu vực trong khuôn viên, hay chỉ cụ thể đối với tòa nhà.
Trường hợp người thuê văn phòng, đơn nên có định nghĩa rõ bất động sản tọa lạc
là khu vực thuê của người được bảo hiểm. Phân định rõ ràng như vậy sẽ có lợi
hơn trong việc giải thích đơn bảo hiểm và giải quyết khiếu nại. Mập mờ gây khó
hiểu ngộ nhận là một tai hại đối với hình ảnh công ty và kéo dài quá trình giải
quyết khiếu nại phát sinh kiện tụng không cần thiết.
Kiến thức bảo hiểm - Doãn Quỳnh Trang
Giữ chân người tài
(Claudio Fernandez-Araoz, Boris
Groysberg và Nitin Nohria –2011)
(Harvard Business
Review – số tháng 10 2011 trang 76)
Cuộc chiến
giành giật người tài chưa bao giờ kết thúc ngay cả trong những ngành nghề ổn định.
15% các doanh nghiệp Bắc Mỹ và Á tin rằng họ có đủ người thừa kế các vị trí
then chốt. Ở châu Âu, 30% doanh nghiệp không đoan chắc về chất lượng cũng như số
lượng nhân sự tốt của mình. Trong các lĩnh vực cần sự phát triển vượt bậc, tại
các thị trường mới nổi, nguồn cung nhân sự cấp cao càng hiếm, và sự thiếu hụt
này còn kéo dài trong 2 thập kỷ nữa.
Giải pháp là
xây dựng chương trình đào tạo nhân sự cao cấp nhắm vào một số cá nhân tiềm năng
trở thành lãnh đạo, nhằm khuyến khích các quản trị viên phấn đấu và tạo điều kiện
cho công ty phát hiện thêm những cá nhân nổi bật
Chương trình
này rất khó thực thi vì khá nhiều nguyên nhân. Tiêu chuẩn thường phức tạp và
các cá nhân thường không hiểu mình có thuộc nhóm triển vọng hay không. Lãnh đạo
cũng rất khó để cân nhắc lựa chọn những người có năng lực cần phát triển và nhu
cầu hiện tại của doanh nghiệp. Sự thất vọng của một nhóm cá nhân đóng góp nhiều
nhưng không được vào danh sách hạt nhân. Ngoài ra sự lựa chọn cũng có thể sai lầm,
khi các cá nhân này không đáp ứng được mong mỏi. Và điều chắc chắn là chương
trình này không hoạt động thường xuyên nên hiệu quả đầu tư thường bỏ ngỏ.
Nghiên cứu
70 doanh nghiệp xuyên quốc gia nổi tiếng với hơn 600 lãnh đạo tiềm năng về đề
tài này rút ra một số ý kiến rất giá trị, mặc dù các chương trình này chưa được
thời gian kiểm chứng. Kết quả cho thấy, Hoạt động đào tạo cán bộ nguồn bao gồm
(1) xây dựng được các tiêu chí chiến lược ưu tiên đào tạo lãnh đạo phù hợp với
doanh nghiệp, (2) lựa chọn các cá nhân có năng lực và thông báo thật tế nhị cho
họ (3) quản trị cán bộ nguồn thông qua chương trình phát triển, chế độ lương
thưởng và động viên.
Không có
công thức chung cho chương trình này, tương tự như việc đem một nhân sự giỏi từ
nơi khác về để mong rằng ngay lập tức doanh nghiệp mình sẽ hiệu quả. Nếu chiến
lược là mở rộng quyết liệt bằng cách thâu tóm mua bán sát nhập, chương trình
nhân sự sẽ khác hẳn với một doanh nghiệp có chiến lược dùng đội ngũ lãnh đạo giá
rẻ thông qua cải thiện sản phẩm.
Lãnh đạo tiềm năng là gì?
Là người có
thể thành công trên cương vị lớn. là khả năng phát triển và giải quyết các vấn
đề có phạm vi rộng và mức độ lớn. Mức độ lớn là có nhiều nhân viên hơn với mức
độ tài chính lớn hơn. Phạm vi rộng là các hoạt động khác nhau, phức tạp hơn.
Trước khi
phân loại các ứng viên tiềm năng cần phải xem xét nhân viên có khả năng tiếp
thu nhanh, cầu tiến mở rộng phạm vi công việc của mình, tham gia vào các hội
nghị mở rộng để học hỏi, sẵn sàng làm thêm công việc mới. Sau đó, sử dụng mô
hình của Egon Zehnder phân loại từ Nội lực đến kỹ năng. Nội lực là một mô hình
phản xạ của cá nhân mang tính tiềm thức khiến họ cảm thấy đam mê hay nhiệt huyết
vào công việc. Có ba nội lực xã hội, theo lý thuyết là (1) thành tựu cá nhân, (2)
sự khâm phục của đồng nghiệp và (3) sự ảnh hưởng lan tỏa. Sự ảnh hưởng lan tỏa
là yếu tố có trọng lượng trong một doanh nghiệp lớn. Sự ảnh hưởng lan tỏa là yếu
tố có phần thiên bẩm, cộng thêm với kinh nghiệm làm việc và đào tạo là nền tảng
cho nội lực tốt hơn.
Có bốn phẩm
chất quan trọng của ứng viên tiềm năng (1) năng lực phân tích chiều sâu, có thể
đánh hơi được hàng loạt các thông tin, phát hiện và ứng dụng ý tưởng mới, biến
hóa kinh nghiệm vào hiện thực. (2) gắn bó các thành viên khác thông qua cảm hứng
công việc, lý luận chặt chẽ, khả năng thuyết phục và kết nối các cá nhân (3)
Dung hòa mọi khác biệt hướng đến mục tiêu chung (4) Tìm được sự đồng lòng của
người khác thông qua việc liên tục tìm tòi học hỏi từ phản hồi của người khác
và điều chỉnh hành vi của mình.
Hiểu được
chính mình, hiểu được mình đang ở đâu trong công việc. Ứng viên tiềm năng hiểu
rằng mình ở vị trí lãnh đạo là muốn thể hiện nhiệt huyết, đam mê muốn làm một
điều gì đó chứ không phải địa vị, hay danh tiếng.
Ba nội dung
nằm ở đáy kim tự tháp ngược là cái rất
khó thay đổi nhưng là yếu tố then chốt của các ứng viên tiềm năng, trong khi kiến
thức và kỹ năng thì hoàn toàn có thể tiếp thu hoặc đào tạo, và là cái có trước
khi được tuyển dụng vào vị trí mới. (còn tiếp)
Kiến thức bảo hiểm - Doãn Quỳnh Trang
Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013
Thời hạn bồi thường hợp lý của đơn gián đoạn kinh doanh
Thời hạn bồi thường của đơn gián đoạn kinh doanh là
thời gian kinh doanh bị ngừng trệ được bảo hiểm. Thời hạn này đảm bảo đủ để
công ty vừa có thể sửa chữa, xây dựng lại nhà xưởng thiết bị, vừa có thể trở về
thời kỳ ngay trước khi có thiệt hại vật chất. Điều này có nghĩa là người được bảo
hiểm có thể giành lại lượng khách hàng đã mất trong thời kỳ gián đoạn và được
công ty bảo hiểm thanh toán cho các chi phí gia tăng nhằm đạt được mục tiêu đó.
Do vậy, thời hạn bồi thường ngắn sẽ vô nghĩa nếu một khách hàng phải tự bỏ tiền
để vận chuyển thiết bị từ chỗ tạm trở về cơ xưởng mới sửa chữa sau khi hết thời
hạn bồi thường.
Chấp
nhận bồi thường theo đơn thiệt hại vật chất
Thời gian chấp nhận của công ty bảo hiểm theo đơn
thiệt hại vật chất là bao nhiêu? Thời gian này tùy thuộc vào công ty giám định
tổn thất về nguyên nhân tổn thất có phù hợp với đơn bảo hiểm hay không, và phải
phù hợp với thủ tục theo qui định của đơn bảo hiểm. Thời hạn này có thể dài đến
ba tháng và như vậy người được bảo hiểm sẽ không thể thực hiện các biện pháp cần
thiết phục hồi sản xuất một cách hiệu quả nhất.
Bất
động sản tạm thời
Thường thì các nhà máy vẫn có thể có các khoảng trống
đủ để làm khu vực tạm, phục vụ sản xuất. Trường hợp như trung tâm thương mại,
trung tâm bán lẻ, chợ, cửa hàng tại khu vực trung tâm, việc tìm kiếm một địa điểm
khác để bán hàng trong thời hạn gián đoạn là khó khăn. Đặc biệt là ngành nghề của
người được bảo hiểm đòi hỏi phải có các tiện ích hạ tầng đi kèm, ví dụ như điện
nước điện thoại internet, khu vực lưu kho.
Các
tiện ích hạ tầng có sẵn
Các vấn đề về kết nối điện, nước điện thoại, ống ga
trung tâm, internet đến bất động sản bị thiệt hại hoặc đến khu vực tạm thời
cũng chiếm thời gian khá quan trọng. Nếu thời gian lắp đặt tạm thời các tiện
ích này kéo dài, thời gian gián đoạn kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng khá nghiêm trọng
Di
dời xà bần
Thời gian di dời xà bần sau tổn thất vật chất, có thể
kéo dài nhất là khi việc di dời này phải tuân thủ các qui định về môi trường sức
khỏe cộng đồng, đặc biệt là đối với xà bần nguy hiểm, độc hại. Việc di dời xà bần
độc hại phải do một đơn vị thứ ba có chuyên môn đảm nhiệm.
Giấy
phép xây dựng
Cần có thời gian xin phép xây dựng lại nhà xưởng bị
thiệt hại. Đôi lúc thời gian này kéo dài vài tháng. Trường hợp người được bảo
hiểm thuê nhà xưởng, cần phải tìm hiểu thời hạn thuê theo hợp đồng thuê là bao
lâu.
Thời
gian đấu thầu xây lại
Cần có thời gian đấu thầu thi công lại các hạng mục
nhà xưởng máy móc bị phá hủy. Phạm vi công việc cần làm v.v và giá tiền của các
công ty dự thầu. Thời gian này cũng phải tính trong thời gian gián đoạn kinh
doanh.
Thời
gian chờ thay thế thiết bị
Nếu máy móc thiết bị phải nhập khẩu, thời gian vận
chuyển chưa được tính vào thời gian gián đoạn kinh doanh. Đối với các máy móc
thiết bị phức tạp, thời gian này khá dài.
Thời
gian lắp đặt, chạy thử không tải và có tải.
Sau khi xây dựng xong nhà xưởng thì việc lắp đặt các
thiết bị, phương tiện cần thiết điện điện thoại, máy tính cũng chiếm thời gian
đáng kể có thể vài tuần.
Tương tự, các thiết bị, máy móc cũng cần thời gian lắp
đặt, vận hành thử không tải có tải. Thời gian cần thiết lắp đặt vận hành các
thiết bị máy móc phải được tính đến. Và thời gian này cũng kéo dài thời hạn
gián đoạn kinh doanh
Thời
gian di chuyển về bất động sản cũ
Nếu doanh nghiệp sử dụng khu vực tạm để sản xuất khi
có tổn thất xảy ra, người được bảo hiểm phải quay trở về cư sở kinh doanh cũ.
Kiếm
lại khách hàng
Thời gian tìm lại những khách hàng đã mất là một quá
trình rất khó đánh giá. Ngay khi bất động sản, máy móc thiết bị, năng lực sản
xuất đã phục hồi hoàn toàn, người được bảo hiểm vẫn có quyền đòi bồi thường cho
phần thu nhập bị mất vì lý do doanh thu chưa quay trở về thời kỳ trước sự cố,
cho đến khi thời hạn bồi thường qui định trong đơn bảo hiểm chấm dứt.
Kết
luận
Cần tư vấn thời hạn bồi thường đủ để đảm bảo thời
gian cho rất nhiều hoạt động khắc phục sự cố thiệt hại vật chất. Theo thống kê,
thời hạn bồi thường tiêu chuẩn 12 tháng hầu như không đáp ứng được nhu cầu của
người được bảo hiểm khi có sự cố. Thường thì thời hạn 24 tháng là phù hợp nhất
cho hầu hết các loại hình nghề nghiệp. Thời gian này đủ đảm bảo cho người được
bảo hiểm phục hồi về trạng thái kinh doanh trước tổn thất.
Kiến thức bảo hiểm - Doãn Quỳnh Trang
Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013
Chi phí khấu hao trong giải quyết bồi thường gián đoạn kinh doanh
Nếu có anh em nào bên giám định coi khấu hao là được
bồi thường theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh thì cần suy xét một số các vấn
đề sau đây.
Mặc dù khi tính số tiền bảo hiểm, công ty bảo hiểm
hoàn toàn không đặt chi phí khấu hao ra ngoài số tiền bảo hiểm vì nghiễm nhiên
nó là chi phí cố định. Nhưng khi giải quyết bồi thường, có nhiều công ty bảo hiểm,
công ty định giá tổn thất coi khấu hao là tiền tiết kiệm được và trừ vào số tiền
bồi thường. Điều này có thể hiểu là chi phí khấu hao được bảo hiểm, nhưng không
được bồi thường. Tệ hơn nó còn bị cấn trừ vào số tiền bồi thường.
Khấu hao là chi phí cố định, nhưng chi phí cố định này
là chi phí ảo. Tiếng anh gọi là Non-cash account. Tài khoản khấu hao tài sản cố
định cũng hạch toán không giống ai. Nó đi từ phải qua trái thay vì trái qua phải
như các tài khoản khác. Ví dụ, một tài sản cố định khi mua về, người mua đã phải
thanh toán tiền, và tiền đó không sớm thì muộn cũng trừ vào tài khoản của công
ty. Và xét về mặt tiền, công ty bị âm đi
một khoản kha khá. Nhưng trên báo cáo tài chính, công ty phải lên một tài khoản
khấu hao giả sử 20% cho 5 năm khấu hao hết, tức là trên sổ sách chỉ âm 20% so với
khoản tiền thực bỏ ra.
Chi phí khấu hao hoàn toàn do người mua lựa chọn
theo vài phương pháp của nhà nước qui định. Người mua sẽ lựa chọn phương pháp
nào họ cảm thấy có lợi nhất, ít phải đóng thuế nhất. Và do vậy, chi phí khấu
hao hoàn toàn chả có ý nghĩa gì về vật chất. Ví dụ, công ty vốn 100k, mua 1 cỗ
máy 100k, coi như trong két tiền là sạch sành sanh. Nhưng về mặt pháp luật,
công ty chỉ được phép ghi 20k chi phí cố định. Giả sử năm đó công ty dùng cỗ
máy bán được 100k tiền hàng, chi phí sản xuất 50k, lợi nhuận 50k. Chi phí khấu
hao cỗ máy cố định theo qui định nhà nước là 20k, lời 30k và phải trả thuế
doanh nghiệp trên số tiền này. Thực tế công ty đã phải thanh toán 100k chứ
không phải 20k trong sổ sách báo thuế. Do vậy, nhà nước đưa ra một số lựa chọn
khấu hao để doanh nghiệp tự tính toán xem phương án nào ít phải đóng thuế nhất.
Thường thì khi ký kết bảo hiểm, tài sản cố định đã
được liệt kê trong số tiền bảo hiểm thiệt hại vật chất, và nghiễm nhiên khi có
tổn thất sẽ được bồi thường theo đơn vật chất. Khoản tiền khấu hao gắn liền với
tài sản ấy không còn giá trị, chả có lý do gì được bồi thường theo đơn gián đoạn
kinh doanh.
Khi tài sản bị tổn thất, không có lý do gì người được
bảo hiểm kê vào khoản chi phí khấu hao cho tài sản đã mất. Điều này, được xác định
trong qui tắc kế toán.
Vấn đề nữa, trong có ba bản báo cáo tài chính thường
xuyên của người được bảo hiểm, báo cáo lưu chuyển tiền tệ nếu dùng phương pháp
gián tiếp, người đọc sẽ thấy rõ, chi phí khấu hao mặc dù được gọi là chi phí,
nhưng nó lại kết dương ở báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
là báo cáo chỉ rõ sức khỏe của công ty vào thời điểm hiện tại, công ty có tiền
mặt hay không, và số tiền là bao nhiêu. Điều này có nghĩa là chi phí khấu hao
là khoản tiền tiết kiệm được của công ty trong quá trình kinh doanh, chứ không
phải là một chi phí thuần túy. Công ty bảo hiểm, nhằm đảm bảo tính an toàn theo
nguyên tắc bồi thường, sẽ phải trừ khoản tiền này vào số tiền bồi thường.
Kiến
thức bảo hiểm - Doãn Quỳnh Trang
Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2013
Hướng dẫn thẩm định bảo hiểm, khai thác kho hàng đa chủng loại theo AM Best (tiếp theo 2)
Trách nhiệm chung: của
hoạt động tại bất động sản tọa lạc
Phơi nhiễm: Trơn, trượt, té, ngã. Nhân viên kiểm kê có thể
ngã từ trên cao. Nếu kho hàng, dùng làm chỗ bán hàng luôn, hoặc gần đường tàu hỏa
thì rủi ro phơi nhiễm sẽ cao hơn
Kiểm tra tại chỗ
ü
Sơ đồ kho hàng?
ü
Chiều cao kho hàng, chiều cao giá để hàng, có để
hàng 2 lớp trên 1 kệ không?
ü
Có khu vực thiết kế riêng để chứa hàng lỏng dễ
cháy và các loại khí gas khác?
ü
Nếu là hàng thực phẩm, trong kho có phòng kiểm
tra không?
ü
Trong kho có khu vực biệt lập lưu kho hàng ngoại
quan?
ü
Có cầu cảng, khu vực bốc dỡ hàng riêng cho lưu
thủy và đường sắt
ü
Có bảng báo hiệu giới hạn số người ra vào kho
ü
Cầu thang có bậc thang không trơn trượt và tay vịn
cứng, chắc, có đủ ánh sáng
ü
Có khu vực đông lạnh?
ü
Có gương cầu lồi bố trí tại các góc mù và ở cuối
mỗi lối đi để tránh va chạm giữa người đi bộ và xe nâng
ü
Có bảng giới hạn tốc độ, và các chỉ dấu cảnh báo
khác như “Bốc dỡ cẩn thận”, “Giữ hành lang thông thoáng”
ü
Thang, bậc, ghế leo, có tốt?
ü
Bảng “Không hút thuốc” phải có mặt ở khắp mọi
nơi
ü
Đèn sáng đêm, hàng rào, cảnh báo “không phận sự
miễn vào” để giảm thiểu khách không mời
ü
Cửa chính có người an ninh 24/7
ü
Khu vực vỉa hè xung quanh kho, khu vực đậu xe sạch
sẽ thông thoáng? Cầu thang bên ngoài có tay vịn vững vàng?
Các tài sản cần kiểm tra
ü
Giờ làm việc của kho? 24 giờ liên tục?
ü
Hoạt động vào thời gian cao điểm tháng 9-12 của
kho tăng hơn bình thường bao nhiêu?
ü
Lưu lượng khách ra vào kho hàng ngày?
ü
Số lần kiểm tra bất thường của cơ quan quản lý
nhà nước?
ü
Khi đội kiểm kê hoặc cơ quan quản lý vào khu vực
lưu kho, cần phải có nhân viên có kinh nghiệm đi kèm?
ü
Cửa kho luôn có chế độ khóa tự động 24/7
ü
Thang máy được bảo trì thường xuyên
ü
Người bảo trì thang máy là nhân viên công ty hay
thuê ngoài, bằng cấp chứng chỉ kinh nghiệm?
ü
Tinh thần cảnh giác và vệ sinh cao độ toàn nhà
kho
ü
Có biển báo cảnh giới ở khu vực bị chảy rò hàng
lỏng
ü
Phải có ít nhất một nhân viên vệ sinh toàn thời
gian cho mỗi một kho, có chứng chỉ chuyên môn, kinh nghiệm
ü
Qui tắc cấm hút thuốc?
ü
Khi cơ quan nhà nước kiểm tra kho đông lạnh, phải
cung cấp đủ quần áo bảo hộ (mặt nạ, găng tay, áo choàng v.v)?
ü
Người ngoài có vào phụ giúp bốc dỡ hàng?
ü
Người vận hành xe nâng được đào tạo? kinh nghiệm,
có chứng chỉ phù hợp
ü
Bánh xe tải phải có cục chặn khi bốc dỡ hàng
ü
Thời gian biểu bốc dỡ hàng cụ thể tại khu bốc dỡ?
ü
Khách vào kho không được đi vào khu lưu giữ hàng
ü
Nhân viên kiểm kê vào kho kiểm kê cho khách hàng
phải có thang, ghế để có thể leo cao an toàn
ü
Người được bảo hiểm có tổ chức bán hàng ngay tại
kho? Cần phải có bản đồ, dấu hiệu chỉ dẫn cụ thể từng khu vực mặt hàng
ü
Cần có nhiều nhân viên tham dực khi cần thiết để
phục vụ người mua hàng
ü
Nếu người được bảo hiểm có chỗ đỗ xe chung với
các đơn vị khác, phân chia trách nhiệm đến đâu?
ü
Có đội bảo vệ thường xuyên tuần tra xung quanh
các kho
ü
Đội bảo vệ được người được bảo hiểm trực tiếp
thuê từng người, hay thuê qua một công ty bảo vệ có tiếng? Nếu tự thuê, kinh
nghiệm, đào tạo của họ đến đâu? Nếu thuê từ công ty, uy tín của công ty đến
đâu, có lịch sử thế nào?
ü
Có sử dụng chó bảo vệ?
ü
Nếu có khu vực kiểm soát an ninh, mọi người đều
phải đi ngang qua lúc vào cũng như ra
ü
Nếu kho hàng dùng nhiều xe nâng về đêm, đường vận
chuyển phải có đèn chiếu đủ sáng
Thứ Năm, 15 tháng 8, 2013
Bảo hiểm Bắt cóc, tống tiền
Bài dưới đây lấy từ website của Bảo việt. Đây là một
sản phẩm hay, và bài báo đã giới thiệu khái quát về phạm vi bảo hiểm. Tôi xin
ăn theo nói leo một tí về phạm vi bảo hiểm cho nó đẹp hồ sơ.
Đây là đơn bảo hiểm riêng biệt tách ra từ một điều
khoản phụ của đơn bảo hiểm tội phạm với nội dung cụ thể hơn và phạm vi bảo hiểm
rộng hơn. Các khái niệm Bắc cóc, Tống tiền khá gắn kết với nhau. Phạm vi ngữ
nghĩa là tương đối trùng lắp. Do vậy đơn bảo hiểm này có phạm vi bảo hiểm phổ
quát cho cả hai.
Bắt cóc là dùng vũ lực hoặc lừa đảo giam giữ người trái
phép.
Tống tiền là hành vi đe dọa tính mạng một người để tước
đoạt tiền của một người khác hoặc ép buộc thi hành mệnh lệnh
Tiền thế chân là tiền hoặc bất cứ tài sản gì phải
trả để chuộc người bị bắt cóc hoặc thanh toán cho kẻ chủ mưu tống tiền.
Tuy nhiên, mỗi một đơn bảo hiểm đều có định nghĩa
khác nhau về ba khái niệm trên.
Một đơn bảo hiểm bắt cóc tống tiền chi trả cho những
mất mát về tài chính khi bị bắt cóc hoặc đe dọa tống tiền. Do vậy, loại tổn
thất được bảo hiểm bao gồm các khoản sau:
·
Tổn thất do phải thanh toán tiền thế chân, hoặc tài sản có giá trị, hoặc
nhiệm vụ theo yêu cầu của nhóm bắt cóc, đe dọa tống tiền.
·
Chi phí phải trả để giải phóng người bị bắt cóc hoặc đáp ứng yêu cầu của
nhóm tống tiền.
·
Tổn thất tiền hoặc tài sản khác trong khi vận chuyển tài vật đến địa điểm
yêu cầu
·
Trách nhiệm pháp lý của người được bảo hiểm cho các khiếu nại của bên thứ
ba yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh do không thực hiện các biện pháp cần
thiết ngăn chặn bắt cóc tống tiền.
·
Chi phí di chuyển nạn nhân về nước, hoặc về nơi sinh sống
·
Khoản tiền xác định trước theo mẫu của công ty bảo hiểm khi nạn nhân
chết, hoặc thương tật do vụ bắt cóc tống tiền
·
Chi phí thu hồi sản phẩm của người được bảo hiểm trong trường hợp bị đe
dọa làm hư hỏng
·
Tổn thất mất thu nhập, hoặc các chi phí phát sinh từ việc bắt cóc tống
tiền.
Các công ty bảo hiểm đã bán sản phẩm này từ nhiều
năm và có đội ngũ chuyên nghiệp thẩm định bảo hiểm, có quan hệ chiến lược lâu
dài với các đơn vị an ninh, bảo vệ. Công ty bảo hiểm cũng có thể cung cấp các
dịch vụ đề phòng hạn chế tổn thất cho riêng loại nghiệp vụ này thông qua các
đối tác của mình. Dịch vụ này trong nhiều trường hợp, thu lợi nhiều hơn phí bảo
hiểm.
Bảo hiểm khi bị bắt cóc, tống tiền
Thế giới ngày một phát triển, nhưng không
thể khẳng định rằng cuộc sống con người được an toàn hơn và người ta phải tìm
mọi cách giảm thiểu những tổn thất nếu có. Đó là lý do để một trong những lĩnh
vực tài chính sinh sau, đẻ muộn nhưng đang phát triển với tốc độ rất nhanh: bảo
hiểm, có nhiều loại hình bảo hiểm, trong đó có cả những hình thức đầy nhạy cảm
như bảo lãnh những trường hợp rủi ro bị bị bắt cóc, tống tiền.
Năm 1932, cả thế giới đã phải bàng hoàng về việc đứa con mới sinh
của Charles Linbergh (1902-1974), một phi công nổi tiếng người Mỹ, là người đầu
tiên thực hiện chuyến bay thành công qua Đại Tây Dương, bị bắt cóc tại một nhà
trẻ ở Mỹ. Bọn bắt cóc đã đòi một số tiền chuộc khá lớn so với thời bấy giờ,
chúng đã có tiền chuộc nhưng thật bất công, đứa trẻ được tìm thấy đã chết trong
một khu rừng ở New Jersey. Vụ bắt cóc đứa con của Linbergh đã gây một cú sốc
kéo dài đến tâm lý người dân Mỹ, nó cũng có một tác động lâu dài với nền công
nghiệp bảo hiểm trên toàn cầu. Sau vụ này, hãng bảo hiểm uy tín nhất lúc bấy
giờ là Lloyd’s of London (Anh) đã tung ngay ra dịch vụ bán bảo hiểm rủi ro bị
bắt cóc, tống tiền cho một số khách hàng tiềm năng là những người nổi tiếng,
giàu có…
Từ đó đến nay đã trên 70 năm, hình thức bảo hiểm bắt cóc, đòi tiền
chuộc (thuật ngữ chuyên môn là K&R (kidnap & ransom) đã không ngừng mở
rộng với mức doanh thu phí bảo hiểm hàng năm lên tới 250 triệu USD (Tạp chí Nhà
kinh tế số ra 24/8/2006). Đặc biệt là sau sự kiện nước Mỹ bị khủng bố ngày
11/9/2001và tình hình có vẻ bùng nổ nạn bắt cóc ở khắp nơi trên thế giới, người
ta có cảm giác cuộc sống trở nên bất an hơn nên nhu cầu về loại hình bảo hiểm
này cũng nhiều hơn. Đi đầu trong việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm này hiện nay là
Hiscox (một công ty con thuộc Lloyd’s of London), AIG (Tập đoàn bảo hiểm của
Mỹ) hay Chubb (Công ty đa quốc gia).
Ở Mỹ, có ít nhất 60% các công ty lớn nằm trong top 500 thực hiện
chính sách bảo hiểm K&R. Không chỉ những nhà lãnh đạo, điều hành mới được
mua bảo hiểm mà cả những kỹ sư thực địa làm việc ở những nơi xa xôi, dễ bị bắt
làm con tin. Nhiều ngân hàng trên thế giới cũng đã bắt đầu vận động những khách
hàng lớn, từ các nguyên thủ quốc gia, giám đốc điều hành các tập đoàn kinh tế
lớn đến các ngôi sao thể thao, nghệ thuật … tham gia mua bảo hiểm thân thể.
Khi nền kinh tế đã trở nên toàn cầu hóa thì hiểm họa bị bắt cóc
cũng được quốc tế hóa. Rất khó để lượng hóa được cụ thể tình hình vì có nhiều
trường hợp người bị hại không khai báo. Nhiều khu vực trên thế giới, K&R
rất đáng báo động. Ở Châu Phi, Nigeria là một điểm nóng, chỉ trong tháng 8 vừa
qua, đã có tới 17 người nước ngoài bị bắt cóc, trong đó có cả người Anh, Mỹ,
Pháp, Philipines và Ukraina … Gần đây nhất, trong tuần qua, có tới 6 kỹ sư dầu
khí người nước ngoài làm việc tại Nigeria đã bị bắt cóc và số phận của họ cho
đến bây giờ vẫn chưa rõ. Các Tập đoàn dầu khí lớn đang làm ăn ở đây hiện đã tự
tìm cách tăng cường an ninh và giảm bớt số nhân công.
Những kẻ thực hiện việc bắt cóc, tống tiền cũng ngày càng tinh vi
từ những tên du côn, trộm vặt đến những tội phạm có tính chuyên nghiệp và tổ
chức cao như FARC ở Colombia (Nam Mỹ). Động cơ của những vụ bắt cóc hầu hết là
đòi tiền chuộc. Ở Achentia và Mexico, nhiều vụ bắt cóc được phát hiện có dính
lứu đến cảnh sát. Có cả những hành vi bắt cóc mà các tổ chức bảo hiểm gọi một
cách lịch sự là “trì hoãn không báo trước”, đó là việc các công ty nội địa tìm
cách gây ảnh hưởng với các đối tác nước ngoài trong quá trình đàm phán kinh
doanh bằng cách đẩy họ vào thế bị hạn chế đi lại do trước đó các công ty này
ngầm thỏa thuận với lực lượng an ninh hoặc chính quyền địa phương đề ra một số
quy định kiểm soát bất lợi cho phía nước ngoài.
Những người đóng phí bảo hiểm cho bản thân mình thường được các
hãng bảo hiểm rất ưu ái, họ sẽ được bảo hiểm hầu như mọi thứ từ khoản tiền
chuộc nếu bị bắt cóc, khoản lương bị mất, bồi thường nếu bị chết hoặc thương
tật, chi phí đi lại cho gia đình và đồng nghiệp, thậm chí cả tiền thuê luật sư
… Những tổ chức tham gia bảo hiểm loại này còn được bảo hiểm khủng hoảng quản
lý trong trường hợp nhân sự quan trọng bị bắt cóc. Nếu có nhân viên nào bị bắt
cóc, tống tiền, các khách hàng của AIG hay Chubb sẽ được các hãng “lo lắng” từ
việc đàm phán với những kẻ bắt cóc đến phối hợp với cảnh sát hoặc Luật sư và có
thể cả việc “chuyển tiền chuộc”… Một số hãng bảo hiểm lớn thường sử dụng các
nhân viên ngành an ninh đã về hưu hoặc chuyển ngạch.
Mức phí bảo hiểm và phí tổn liên quan mà một khách hàng là tổ chức
phải trả cho các hãng bảo hiểm phụ thuộc vào quy mô, loại hình doanh nghiệp, uy
tín thương hiệu, địa bàn hoạt động và cả tình hình an ninh trật tự chung. Ở Mỹ,
một công ty cỡ vừa thường phải đóng mức phí 500USD mỗi năm để được hưởng khoản
bảo hiểm l triệu USD, còn các công ty lớn, đa quốc gia phải đóng tới 50.000 USD
để có thể được bồi thường tới 25 triệu USD.
Với loại hình bảo hiểm nhạy cảm này thì vấn đề bí mật là rất quan
trọng. Các hãng bảo hiểm có quyền hủy hợp đồng nếu khách hàng để lộ việc tham
gia bảo hiểm với bên thứ ba, thậm chí là với khách hàng quen hoặc bạn bè. Đó là
vì ở một số nơi và trong nhiều trường hợp, một cá nhân hay tổ chức tham gia bảo
hiềm có thể là đối tượng rất hấp dẫn bọn bắt cóc vì chúng biết rằng đối tượng
có thể không có nhiều tiền nhưng hãng bảo hiểm thì chắc chắn … rất giàu!
Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013
Hướng dẫn thẩm định bảo hiểm, khai thác kho hàng đa chủng loại theo AM Best (tiếp)
Nguyên vật liệu và
thiết bị
Thiết bị xử lý di dời nguyên vật liệu, bao gồm xe nâng, xe cần
cẩu nâng hàng, xe cút kít, xe cút kít thủy lực, xe nâng xoay thùng hàng, vật liệu
gói hàng, nguyên liệu vệ sinh, tấm để hàng, giá đỡ, kệ để hàng, máy in mã vạch,
máy quét mã vạch, máy tính, phần mềm, bộ điều nhiệt điều khiển bằng máy tính,
máy làm nước đá, thiết bị cấp đông.
Phơi nhiễm (exposure)
và kiểm soát Trách nhiệm xe cơ giới
Phơi nhiễm với cường độ xe qua lại, thời tiết giá lạnh ẩm ướt.
Kiểm tra tại chỗ
ü
Số lượng xe, số hiệu, tuổi, loại, tình trạng.
Danh mục cần kiểm tra
ü
Nhân viên có dùng xe máy, xe hơi riêng dùng cho
công việc
ü
Giới hạn bảo hiểm trách nhiệm của các xe sở hữu
cá nhân
ü
Lái xe, tuổi, kinh nghiệm, giấy phép lái xe, lý
lịch tai nạn của lái xe
ü
Lái xe tải, xe rơ mooc có giấy phép phù hợp?
ü
Cường độ chuyên chở và bán kính hoạt động vận
chuyển?
ü
Khi nhân viên di chuyển đến các buổi hội thảo,
đào tạo, thì dùng xe của công ty, xe cá nhân hay phương tiện vận chuyển công cộng?
ü
Lái xe có tìm thời gian thấp điểm để vận chuyển
hàng? Xe có thường bật đèn khi gặp thời tiết xấu?
ü
Lái xe có thuộc đường không?
ü
Người được bảo hiểm có chính sách tầm soát sử dụng
điện thoại di động khi lái xe? Nếu được phép sử dụng khi lái thì có dùng chế độ
handfree hay dùng tai nghe có phone và người được bảo hiểm có cung cấp các thiết
bị này không?
ü
Có chương trình đào tạo an toàn cho lái xe?
ü
Bảo trì thường xuyên và kiểm tra đối với tất cả
các xe của công ty
ü
Chất lượng của cán bộ kỹ thuật xe của công ty? Có
được chứng nhận nào, kinh nghiệm?
ü
Nhân viên không được can dự vào việc bảo trì sửa
chữa xe của công ty
Hướng dẫn thẩm định bảo hiểm, khai thác kho hàng đa chủng loại theo AM Best
Hướng dẫn khai thác kho hàng tôi thu thập được dưới đây theo báo cáo của AM Best. Báo cáo này không miễn phí. Giá của nó là 45 đô la Mỹ. Và viết lại cho độc giả hiểu thêm về đề tài này đòi hỏi công sức không nhỏ.
(còn tiếp)
Loại hình nghiệp vụ có liên quan đến kho hàng chủ yếu là trách nhiệm xe cơ giới, trách nhiệm công cộng, trách nhiệm pháp lý của đơn vị vận hành kho bãi, trách nhiệm của người thuê lao động, các loại tội phạm, tài sản, hỏa hoạn, gián đoạn kinh doanh, vận chuyển nội địa.
Hướng dẫn khai thác kho hàng này là kiến thức phổ quát bao gồm cho các loại kho hàng bến bãi chung, kho hàng bến bãi sản phẩm nông nghiệp, kho cho các loại hàng hóa khác. Các hoạt động có liên quan đến chuyển dịch thực phẩm, di dời và lưu kho, kho hàng hóa đông lạnh chung, các phương tiện lưu kho khác. Còn chi tiết hướng dẫn cho từng loại kho hàng thì Best có hướng dẫn riêng
Mô tả rủi ro
Kho hàng chung cung cấp dịch vụ lưu kho ngắn hạn, dài hạn cho nguyên vật liệu, các loại hàng hóa bán thành phẩm, bộ phận, hàng thành phẩm sau khi chuyển từ cảng biển về hoặc trong giai đoạn trung chuyển giữa các giai đoạn sản xuất trước khi xuất xưởng, hay trước khi chuyển cho nhà phân phối hay nhà bán lẻ. Thời gian lưu kho có thể từ vài giờ đến vài năm tùy theo nhu cầu của khách hàng. Có khá nhiều người được bảo hiểm chỉ trả tiền cho địa điểm sang hàng từ phương tiện này sang phương tiện khác mà không cần lưu kho. Dịch vụ này cũng được các công ty điều hành kho hàng cung cấp.
Đối với người được bảo hiểm xử lý các loại hàng thực phẩm cho người và gia súc, họ có nhiệm vụ phải tuân thủ các qui tắc pháp luật về vấn đề này. Họ phải cung cấp biên bản kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm định kỳ của cơ quan quản lý, và biên bản về vệ sinh môi trường của cơ quan bảo vệ môi trường. Đồng thời người được bảo hiểm cũng phải tuân thủ mọi qui tắc pháp luật về xử lý chế biến vận chuyển hàng thực phẩm.
Đối với kho hàng nhập khẩu, nếu muốn thông quan, phải có cơ quan đến kiểm tra về độ an toàn của hàng hóa.
Với môi trường kinh doanh hiện đại, rất nhiều doanh nghiệp chỉ kinh doanh cung cấp kho hàng ở rất nhiều nơi, nhiều khu vực địa lý khác nhau ở những vị trí đôi lúc khá đặc thù ví dụ như, gần cầu cảng, vịnh, cửa sông, cảng, nơi có lưu lượng thuyền bè tàu hàng qua lại lớn. Ngoài ra, kho hàng còn có thể nằm ngay cạnh đường ga tàu hỏa, đường quốc lộ, hoặc gần cả hai tuyến đường trên. Vị trí của kho hàng sẽ nằm ở điểm cho phép xe tải ra vào liên tục, thuận tiện cho các công ty vận tải hàng.
Vấn đề thanh toán hóa đơn vận tải diễn ra nhanh chóng bằng chuyển khoản điện tử. Giá tiền lưu kho tùy thuộc vào người được bảo hiểm quyết định theo tính năng kho hàng của họ. Có một số định giá lưu kho trên cơ sở khối lượng của hàng hóa, một số khác định giá trên cơ sở thể tích của hàng. Giá này sẽ được nhân lên với thời gian lưu kho. Do khách hàng có thể yêu cầu lưu kho vài giờ để chung chuyển hoặc lưu kho dài hạn, nên thời gian này sẽ được tính theo giờ hay theo tháng. Theo giờ, giá khác, theo tháng, giá khác. Nếu lưu kho dài hạn, thời gian tính lưu kho theo tháng bắt đầu kể từ ngày lưu kho.
Kết cấu kho hàng có thể là, gạch, thép tiền chế, khung nhôm, đá. Kho có thể có nhiều khuôn viên, trong mỗi khuôn viên được chia nhỏ thành nhiều khu vực khác nhau, thường chỉ có một tầng trệt. Tuy nhiên, chiều cao của mỗi kho hàng có thể lên đến 13m. Bên trong của kho có kê giá để hàng cao từ 8 đến 9 tầng. Hàng để trên kệ, giá đỡ có thể xếp từ 1 đến hai lớp song song. Khi sắp theo hai lớp song song với nhau thì mỗi mặt đều phải hướng ra lối đi để dễ di dời. Khoảng cách giữa các giá đỡ, kệ để hàng phải sắp có độ rộng cần thiết để các phương tiện di dời như folklift có thể hoạt động tốt không bị cản trở. Sơ đồ giá, kệ để hàng trong một kho phải được dán ở khu vực cửa ra vào, khu tháo dỡ hàng, tại địa điểm chung dùng để đóng gói, tại văn phòng làm việc và trong phòng vệ sinh.
Đôi lúc kho hàng cũng có dự trữ một khu vực riêng dùng để lưu các loại kho hàng dễ cháy, xăng dầu, các loại khí gas hóa lỏng dễ cháy. Nếu là kho hàng thực phẩm, cần phải có phòng kiểm tra thực phẩm ngay tại kho. Cần phải có khu vực riêng, biệt lập để lưu kho hàng nhập khẩu, chưa thuế. Một số kho hàng có thêm cảng hoặc đường ray xe lửa phụ, thuộc sở hữu của người được bảo hiểm. Có thể có khu văn phòng làm việc và khu nhà nghỉ của nhân viên nằm ngay trong khuôn viên kho hàng.
Một số kho hàng, hoạt động liên tục từ 18-24 giờ một ngày từ thứ 2 đến thứ 7 để phục vụ nhu cầu cao của khách hàng, và chỉ đóng cửa vào ngày lễ và chủ nhật. trong nhiều trường hợp, hàng đến kho vào thời điểm nửa đêm do tắc đường, kẹt xe v.v đòi hỏi kho phải hoạt động thêm giờ để phục vụ khách hàng. Nhu cầu khách hàng cũng thay đổi thường xuyên trong năm, lúc nhiều lúc ít. Tuy nhiên, đối với hoạt động lưu kho cho nhà bán lẻ thì hoạt động thường cao vào dịp cuối năm, khoảng từ tháng 9 trở đi.
Kho hàng có thể từ loại nhỏ có 10 nhân viên đến loại lớn có hơn 100 nhân viên. Hầu hết đã gia nhập công đoàn và công đoàn có tiếng nói quan trọng trong việc ấn định giờ giấc ca kíp làm việc. Người quản lý tại kho, quán xuyến hoạt động của kho hàng. Người quản lý kho có nhiệm vụ báo cáo trực tiếp cho giám đốc vận hành, là người quản lý toàn bộ hoạt động của đơn vị. Người quản lý tại kho chịu trách nhiệm vận hành kho bao gồm hàng nhập, xuất, sắp hàng lên, dỡ hàng xuống, kiểm kê hàng. Nhân viên kiểm tra, kiểm tra hàng đến và vận đơn. Nhân viên tại khu trung chuyển có trách nhiệm bốc dỡ hàng. Nhân viên vận hành xe nâng và nhân viên quản lý tòa nhà. Nhân viên vệ sinh đóng vai trò rất quan trọng, họ có nhiệm vụ đảm bảo kho luôn vệ sinh, sạch sẽ toàn bộ khu vực. Đối với kho chứa thực phẩm, chỉ cần thiếu vệ sinh có thể bị phạt rất nặng.
Phần lớn người được bảo hiểm đều có trưởng phòng quản trị rủi ro có trách nhiệm về an toàn cho toàn bộ nhà xưởng, và một nhân viên thường trực, hoặc thay phiên thường trực 24/7 đề phòng trường hợp khẩn cấp. Nhân viên văn phòng có nhiệm vụ hỗ trợ khách hàng lưu kho, vận tải, lên lịch trình lấy hàng và chuyển hàng, thu xếp phương tiện vận tải và kế toán viên xử lý giấy tờ thanh toán, thu đòi công nợ. Nhân viên bán hàng, đàm phán ký kết, tái tục hợp đồng với khách hàng, thời gian của nhân viên bán hàng hoàn toàn do họ tự chủ sắp xếp, lên kế hoạch, gọi điện v.v
Phần lớn nhân viên được đào tạo tại chỗ dắt tay chỉ việc. Đôi lúc, cũng có một số lớp học đào tạo ngay tại chỗ của các nhân viên có kinh nghiệm qua các hội thảo. Ngoài ra, có một số trường đào tạo nghề cho các nhân viên vận hành kho hàng, nhân viên vận hành xe nâng phải có chứng chỉ nghề. Nhân viên văn phòng, cần có trình độ văn hóa đủ đáp ứng yêu cầu công việc.
Thường, thì hàng hóa được vận chuyển đến kho hàng trực tiếp từ nhà sản xuất có thể là xe tải, xe lửa, tàu thủy. Khi hàng được dỡ xuống, nhân viên kiểm tra hàng với vận đơn xem có khớp không. Nếu hàng được chở đến để lưu kho, nhân viên sẽ có nhiệm vụ ghi biên bản nhận hàng xác nhận hàng đã được lưu kho. Biên nhận, cần phải có mã hàng, ngày, mô tả, khối lượng, thể tích, số lượng, điều kiện điều khoản của hợp đồng lưu kho, giới hạn trách nhiệm của công ty bảo hiểm. Phần lớn hàng đến nơi đã đóng gói, tuy nhiên người được bảo hiểm vẫn có thể cung cấp dịch vụ này.
Ngay khi kho hàng nhận hàng, cần thiết phải có thông báo chính thức cho chủ hàng qua email, điện thoại, thư thương mại, fax. Sau khi hàng đã nhập kho, các kiện hàng đều phải ghi mã vạch để tiện kiểm kê và rà soát. Quản lý kho hàng tận tay ghi chỉ dẫn vị trí từng kiện hàng trong kho. Mỗi một vị trí kệ để hàng cũng phải có mã vạch. Truy tìm hàng trong kho đều phải sử dụng hệ thống máy tính. Sau đó, phải có hệ thống chuyển hàng bằng xe nâng đưa hàng vào đúng vị trí kệ để hàng. Nếu là lưu kho dài hạn, người được bảo hiểm có thể cung cấp dịch vụ kiểm kê hàng cho khách hàng.
99% hàng hóa được nhân viên của người được bảo hiểm xử lý bốc dỡ di dời trong phạm vi kho hàng. Nếu người được bảo hiểm, có nguyên đội xe vận chuyển, họ có thể cung cấp luôn dịch vụ vận chuyển cho khách hàng bên ngoài kho hàng, thêm phí. Trước khi hàng xuất kho, bằng xe tải, tàu hỏa, tàu thủy đều phải kiểm tra và kiểm kê, sau đó bốc hàng.
Ngành nghề này dựa hoàn toàn vào hệ thống máy tính truy xuất vị trí hàng. Một số doanh nghiệp còn cung cấp website để khách hàng có thể truy nhập trực tuyến tìm vị trí của hàng trong hành trình.
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)
