Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

Nguyên nhân chính nguyên nhân quan trọng

Bài viết này chỉ phục vụ 1 câu hỏi của độc giả.

Có bạn đọc hỏi về thế nào là nguyên nhân chính, nguyên nhân quan trọng, tiếng anh có khá nhiều từ main cause, effective cause, efficient cause, dominant cause, active cause v.v những cụm từ này chủ yếu tập trung vào một khái niệm là nguyên nhân chính. Nguyên nhân thực sự gây hậu quả.

Nguyên nhân chính là một khái niệm trong định nghĩa nguyên nhân gần nhưng không đủ để trở thành nguyên nhân gần. Định nghĩa nguyên nhân gần là an active and efficient cause that sets in motion of a train of events which brings about a result.... Như vậy định nghĩa đã cụ thể hóa ngay khái niệm nguyên nhân chính nằm trong định nghĩa của mình. Điều này có thể hiểu là các nguyên nhân phụ, nguyên nhân không quan trọng không được tính đến khi xem xét nguyên nhân của một tổn thất hay thiệt hại.

Trong ví dụ lái xe đâm vào xe phía trước thắng gấp dừng đèn đỏ. Sự kiện thắng gấp của xe phía trước là nguyên nhân hoàn toàn vô nghĩa. Lý do là đến đèn đỏ anh ta phải dừng lại. Người lái xe phải luôn luôn trong tình trạng tỉnh táo và hoàn toàn làm chủ phương tiện của mình đối với tín hiệu giao thông. Xe đằng sau đâm vào xe trước lỗi hoàn toàn. Nguyên nhân chính ở đây là lái xe sau đã không làm chủ tốc độ khi có tín hiệu giao thông.

Để phân biệt giữa nguyên nhân chính và phụ, một câu hỏi kiểm tra sẽ được đặt ra như sau: Nếu không có sự kiện A hay B, tổn thất có thể xảy ra hay không? Trường hợp trên, nếu không có sự kiện xe trước thắng gấp, người lái xe sau có tông lên phía trước hay không? Rõ ràng nếu không có xe đằng trước, người lái xe sau vẫn tông thẳng lên phía trước và nguy hiểm hơn, anh ta có thể gây tai nạn với xe chiều đèn xanh.

Tuy nhiên nếu trường hợp trên, giả sử người lái xe trước thắng gấp do tránh xe máy quẹo trái bất ngờ không bật đèn tín hiệu. Vần đề trở nên khác hoàn toàn. Ở đây ta phải xét thêm yếu tố xe máy quẹo trái bất ngờ. Đây cũng là nguyên nhân chính nguyên nhân chủ lực. Lý do là nếu không có sự kiện quẹo trái bất ngờ, xe trước sẽ không thắng gấp, và xe sau cũng không đụng vào xe trước. Đồng thời, do không làm chủ tốc độ, xe sau đã đâm vào xe trước. Hai thiệt hại này hoàn toàn độc lập với nhau và có hai nguyên nhân. Tuy nhiên thiệt hại xe hơi tông nhau có hai nguyên nhân đồng thời. Theo luật Việt nam người lái xe sau lỗi hoàn toàn vì anh đã không làm chủ tốc độ trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Ví dụ nổi tiếng, một chiếc tàu bị ngư lôi đánh lủng một lỗ to. Nó cố chạy về đến cảng và neo tại đó chờ sửa chữa. Một cơn sóng to đưa qua và nó chìm. Công ty bảo hiểm lý luận rằng tàu chìm do sóng đánh và không bồi thường. Tòa bác đơn, cho rằng sóng là hiện tượng phổ biến. Bất kỳ một chiếc tàu nào thiết kế ra cũng phải có khả năng chịu được sóng biển và do vậy đây là nguyên nhân không quan trọng. Nguyên nhân tàu chìm là bị ngư lôi oánh.

Giả sử tàu bị ngư lôi oánh nhưng chỉ hỏng một khoang, tàu về giữa đường gặp bão, và bị một cơn sóng dọc oánh gãy đôi tàu. Vấn đề hoàn toàn khác. Một chiếc tàu đủ khả năng đi biển chưa chắc đã chịu nổi vài cơn sóng dọc. Thường thì điều này phải phụ thuộc vào trình độ của người lái tàu tránh sóng dọc thế nào. Và do tàu đã bị hư hỏng nên khả năng điều khiển tàu của lái tàu trở nên hạn chế hơn. Dẫn đến tình huống bị sóng oánh gãy đôi.

Nguyên nhân chính chỉ là một yếu tố cấu thành của nguyên nhân gần. Đây là yếu tố để loại bỏ các sự kiện không cần thiết khi xem xét nguyên nhân một sự cố. Bài kiểm tra đưa ra rất cụ thể là nếu không có yếu tố này, tổn thất vẫn xảy ra hay nó sẽ không xảy ra. Nếu nó vẫn xảy ra, nguyên nhân đó là nguyên nhân không đáng xem xét. Nếu tổn thất không xảy ra, nguyên nhân đó trở nên quan trọng.


Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Bất động sản được bảo hiểm trong đơn gián đoạn kinh doanh

Qui tắc chuẩn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đòi hỏi điều kiện tiên quyết là có thiệt hại đối với tài sản thuộc sở hữu hoặc quyền sử dụng của doanh nghiệp tại bất động sản được bảo hiểm. Nếu có thiệt hại vật chất đối với các tài sản này, đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sẽ được kích hoạt (điều kiện này được gọi là điều kiện thiệt hại vật chất, Material damage proviso). Khi đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã được kích hoạt bằng một thiệt hại vật chất tại bất kỳ một địa điểm nào được bảo hiểm, thiệt hại gián đoạn kinh doanh được bảo hiểm sẽ tính trên toàn bộ doanh nghiệp có nghĩa là nó không chỉ giới hạn đối với thiệt hại gián đoạn kinh doanh riêng tại địa điểm xảy ra thiệt hại vật chất.

Có rất nhiều đơn bảo hiểm không đưa ra định nghĩa bất động sản được bảo hiểm. Và nếu có định nghĩa thì cũng đơn giản là nêu danh sách các địa chỉ địa điểm trong bản danh mục bảo hiểm. Một số đơn liệt kê địa chỉ được bảo hiểm, số khác tệ hơn, chỉ ghi chung chung là tất cả các cư sở của người được bảo hiểm trên thế giới.

Khái niệm Bất động sản tọa lạc trong đơn gián đoạn kinh doanh là một khái niệm tách rời với khái niệm tòa nhà được định nghĩa trong đơn thiệt hại vật chất.

Vấn nạn

Điều kiện kích hoạt đơn gián đoạn kinh doanh là thiệt hại vật chất tại bất động sản tọa lạc.

Trường hợp người được bảo hiểm hoạt động tại một khu vực lớn, khu sản xuất chính, văn phòng và các khu vực phụ cận, đường xá, hạ tầng. Hầu hết các đơn, không cụ thể hóa bất động sản tọa lạc chỉ bao gồm các tòa nhà hay là bao gồm các công trình phụ đường xá hạ tầng cho đến hết khuôn viên khu vực của doanh nghiệp được bảo hiểm. Trong khi khái niệm tương tự được định nghĩa khá rõ trong đơn thiệt hại vật chất.

Trường hợp tại một địa điểm, có nhiều doanh nghiệp hoạt động ví dụ như tòa nhà văn phòng. Đơn gián đoạn kinh doanh cũng không nêu rõ bất động sản tọa lạc là khu vực thuê của người được bảo hiểm hay là toàn bộ tòa nhà hay là toàn bộ khu vực nằm trong tường rào khuôn viên bao gồm cả tòa nhà.

Hậu quả là nếu một sự cố phát sinh tại bãi đậu xe của tòa nhà, hoặc bất kỳ khu vực chung của một tòa nhà văn phòng, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh cho một người thuê văn phòng có thể không được bồi thường nhưng công ty bảo hiểm có thể bị kiện.

Vấn đề này cũng phát sinh ngay đối với điều khoản bổ sung về hư hỏng hạ tầng, hoặc điều khoản cản trở lối vào.

Trong đơn bảo hiểm có yêu cầu về nghĩa vụ của người được bảo hiểm trong việc dọn dẹp vệ sinh vận chuyển rác thải ra khỏi bất động sản tọa lạc. Vấn đề cũng phát sinh là việc vận chuyển rác thải đến đâu được coi là ra khỏi bất động sản tọa lạc. Chuyển rác ra khỏi văn phòng, chuyển rác ra khỏi tòa nhà, hay chuyển rác ra khỏi khuôn viên.

Định nghĩa bất động sản tọa lạc là các địa chỉ cụ thể trong bản danh mục bảo hiểm thì tốt hơn. Nhưng xét về giác độ kinh doanh, điều kiện này bó tay người được bảo hiểm trong việc phát triển các cư sở kinh doanh của mình. Và sự cố phát sinh ngay sau khi người được bảo hiểm mua thêm một địa điểm mới sẽ không có giá trị kích hoạt đơn bảo hiểm.

Trường hợp có một nhóm các công ty có mối quan hệ kinh doanh liên kết chắt chẽ với nhau mặc dù không trực thuộc một tập đoàn sẽ không được bảo hiểm theo một chương trình bảo hiểm duy nhất cho toàn nhóm.

Hậu quả

Không có định nghĩa rõ ràng, công ty bảo hiểm có toàn quyền suy diễn theo ý đồ của mình căn cứ trên từ ngữ trong đơn. Hậu quả là người được bảo hiểm có thể hiểu sai phạm vi bảo hiểm của đơn, đặc biệt là khi họ thích thay đổi công ty bảo hiểm. Phức tạp hơn khi đơn bảo hiểm chính sử dụng một khái niệm và điều khoản bổ sung sử dụng một khái niệm khác.

Trường hợp có bảo hiểm cho các sự cố đối với phần bên ngoài tòa nhà, vườn, hàng rào và các tài sản ngoài trời khác, khả năng bảo hiểm dưới giá trị cũng phát sinh khi thiết kế đơn bảo hiểm. Và điều này ảnh hưởng lên đơn gián đoạn kinh doanh.

Trường hợp các tài sản ngoài trời bị thiệt hại, khả năng thiệt hại này không được coi là điều kiện kích hoạt đơn gián đoạn kinh doanh.

Việc áp dụng Điều khoản bổ sung cản trở lối vào, gián đoạn hạ tầng cũng có thể gây nhiều tranh cãi nếu sự cố xảy ra trong khuôn viên khu vực nhưng bên ngoài tòa nhà.

Một trường hợp cụ thể một khiếu nại ước ban đầu 11 triệu đô la Mỹ. Điều khoản bảo đảm đòi hỏi người được bảo hiểm phải vận chuyển rác thải ra khỏi bất động sản tọa lạc thường nhật. Rác thải được cho vào gói và chuyển ra bên ngoài tòa nhà, và để cạnh hàng rào bên trong khuôn viên hàng ngày và sau đó được chuyển ra khỏi khu vực 1 tuần 1 lần. Cháy xảy ra do một cậu bé đốt lửa bên ngoài một thùng rác cách tòa nhà 10 mét, gió thổi lửa về phía tòa nhà, và làm tòa nhà cháy rụi.

Theo đơn gián đoạn kinh doanh, khái niệm bất động sản tọa lạc không phân định cụ thể là tòa nhà hay là tất cả các khu vực khác nằm trong khuôn viên. Nếu khái niệm bất động sản tọa lạc được hiểu là tòa nhà, người được bảo hiểm đã tuân thủ đúng theo điều kiện của đơn về vận chuyển rác thải và đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được kích hoạt và công ty bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường. Nếu khái niệm bất động sản tọa lạc bao gồm toàn bộ các khu vực khác trong khuôn viên, người được bảo hiểm đã vi phạm cam kết và công ty bảo hiểm miễn trách.

Giải pháp

Đơn bảo hiểm nên xác định khái niệm bất động sản tọa lạc cụ thể là toàn bộ khu vực trong khuôn viên, hay chỉ cụ thể đối với tòa nhà. Trường hợp người thuê văn phòng, đơn nên có định nghĩa rõ bất động sản tọa lạc là khu vực thuê của người được bảo hiểm. Phân định rõ ràng như vậy sẽ có lợi hơn trong việc giải thích đơn bảo hiểm và giải quyết khiếu nại. Mập mờ gây khó hiểu ngộ nhận là một tai hại đối với hình ảnh công ty và kéo dài quá trình giải quyết khiếu nại phát sinh kiện tụng không cần thiết.


Kiến thức bảo hiểm - Doãn Quỳnh Trang

Giữ chân người tài

(Claudio Fernandez-Araoz, Boris Groysberg và Nitin Nohria –2011)
(Harvard Business Review – số tháng 10 2011 trang 76)

Cuộc chiến giành giật người tài chưa bao giờ kết thúc ngay cả trong những ngành nghề ổn định. 15% các doanh nghiệp Bắc Mỹ và Á tin rằng họ có đủ người thừa kế các vị trí then chốt. Ở châu Âu, 30% doanh nghiệp không đoan chắc về chất lượng cũng như số lượng nhân sự tốt của mình. Trong các lĩnh vực cần sự phát triển vượt bậc, tại các thị trường mới nổi, nguồn cung nhân sự cấp cao càng hiếm, và sự thiếu hụt này còn kéo dài trong 2 thập kỷ nữa.

Giải pháp là xây dựng chương trình đào tạo nhân sự cao cấp nhắm vào một số cá nhân tiềm năng trở thành lãnh đạo, nhằm khuyến khích các quản trị viên phấn đấu và tạo điều kiện cho công ty phát hiện thêm những cá nhân nổi bật

Chương trình này rất khó thực thi vì khá nhiều nguyên nhân. Tiêu chuẩn thường phức tạp và các cá nhân thường không hiểu mình có thuộc nhóm triển vọng hay không. Lãnh đạo cũng rất khó để cân nhắc lựa chọn những người có năng lực cần phát triển và nhu cầu hiện tại của doanh nghiệp. Sự thất vọng của một nhóm cá nhân đóng góp nhiều nhưng không được vào danh sách hạt nhân. Ngoài ra sự lựa chọn cũng có thể sai lầm, khi các cá nhân này không đáp ứng được mong mỏi. Và điều chắc chắn là chương trình này không hoạt động thường xuyên nên hiệu quả đầu tư thường bỏ ngỏ.

Nghiên cứu 70 doanh nghiệp xuyên quốc gia nổi tiếng với hơn 600 lãnh đạo tiềm năng về đề tài này rút ra một số ý kiến rất giá trị, mặc dù các chương trình này chưa được thời gian kiểm chứng. Kết quả cho thấy, Hoạt động đào tạo cán bộ nguồn bao gồm (1) xây dựng được các tiêu chí chiến lược ưu tiên đào tạo lãnh đạo phù hợp với doanh nghiệp, (2) lựa chọn các cá nhân có năng lực và thông báo thật tế nhị cho họ (3) quản trị cán bộ nguồn thông qua chương trình phát triển, chế độ lương thưởng và động viên.

Không có công thức chung cho chương trình này, tương tự như việc đem một nhân sự giỏi từ nơi khác về để mong rằng ngay lập tức doanh nghiệp mình sẽ hiệu quả. Nếu chiến lược là mở rộng quyết liệt bằng cách thâu tóm mua bán sát nhập, chương trình nhân sự sẽ khác hẳn với một doanh nghiệp có chiến lược dùng đội ngũ lãnh đạo giá rẻ thông qua cải thiện sản phẩm.

Lãnh đạo tiềm năng là gì?

Là người có thể thành công trên cương vị lớn. là khả năng phát triển và giải quyết các vấn đề có phạm vi rộng và mức độ lớn. Mức độ lớn là có nhiều nhân viên hơn với mức độ tài chính lớn hơn. Phạm vi rộng là các hoạt động khác nhau, phức tạp hơn.



Trước khi phân loại các ứng viên tiềm năng cần phải xem xét nhân viên có khả năng tiếp thu nhanh, cầu tiến mở rộng phạm vi công việc của mình, tham gia vào các hội nghị mở rộng để học hỏi, sẵn sàng làm thêm công việc mới. Sau đó, sử dụng mô hình của Egon Zehnder phân loại từ Nội lực đến kỹ năng. Nội lực là một mô hình phản xạ của cá nhân mang tính tiềm thức khiến họ cảm thấy đam mê hay nhiệt huyết vào công việc. Có ba nội lực xã hội, theo lý thuyết là (1) thành tựu cá nhân, (2) sự khâm phục của đồng nghiệp và (3) sự ảnh hưởng lan tỏa. Sự ảnh hưởng lan tỏa là yếu tố có trọng lượng trong một doanh nghiệp lớn. Sự ảnh hưởng lan tỏa là yếu tố có phần thiên bẩm, cộng thêm với kinh nghiệm làm việc và đào tạo là nền tảng cho nội lực tốt hơn.
Có bốn phẩm chất quan trọng của ứng viên tiềm năng (1) năng lực phân tích chiều sâu, có thể đánh hơi được hàng loạt các thông tin, phát hiện và ứng dụng ý tưởng mới, biến hóa kinh nghiệm vào hiện thực. (2) gắn bó các thành viên khác thông qua cảm hứng công việc, lý luận chặt chẽ, khả năng thuyết phục và kết nối các cá nhân (3) Dung hòa mọi khác biệt hướng đến mục tiêu chung (4) Tìm được sự đồng lòng của người khác thông qua việc liên tục tìm tòi học hỏi từ phản hồi của người khác và điều chỉnh hành vi của mình.

Hiểu được chính mình, hiểu được mình đang ở đâu trong công việc. Ứng viên tiềm năng hiểu rằng mình ở vị trí lãnh đạo là muốn thể hiện nhiệt huyết, đam mê muốn làm một điều gì đó chứ không phải địa vị, hay danh tiếng.


Ba nội dung nằm ở đáy kim tự tháp ngược  là cái rất khó thay đổi nhưng là yếu tố then chốt của các ứng viên tiềm năng, trong khi kiến thức và kỹ năng thì hoàn toàn có thể tiếp thu hoặc đào tạo, và là cái có trước khi được tuyển dụng vào vị trí mới. (còn tiếp)

Kiến thức bảo hiểm - Doãn Quỳnh Trang

Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Thời hạn bồi thường hợp lý của đơn gián đoạn kinh doanh

Thời hạn bồi thường của đơn gián đoạn kinh doanh là thời gian kinh doanh bị ngừng trệ được bảo hiểm. Thời hạn này đảm bảo đủ để công ty vừa có thể sửa chữa, xây dựng lại nhà xưởng thiết bị, vừa có thể trở về thời kỳ ngay trước khi có thiệt hại vật chất. Điều này có nghĩa là người được bảo hiểm có thể giành lại lượng khách hàng đã mất trong thời kỳ gián đoạn và được công ty bảo hiểm thanh toán cho các chi phí gia tăng nhằm đạt được mục tiêu đó. Do vậy, thời hạn bồi thường ngắn sẽ vô nghĩa nếu một khách hàng phải tự bỏ tiền để vận chuyển thiết bị từ chỗ tạm trở về cơ xưởng mới sửa chữa sau khi hết thời hạn bồi thường.

Chấp nhận bồi thường theo đơn thiệt hại vật chất

Thời gian chấp nhận của công ty bảo hiểm theo đơn thiệt hại vật chất là bao nhiêu? Thời gian này tùy thuộc vào công ty giám định tổn thất về nguyên nhân tổn thất có phù hợp với đơn bảo hiểm hay không, và phải phù hợp với thủ tục theo qui định của đơn bảo hiểm. Thời hạn này có thể dài đến ba tháng và như vậy người được bảo hiểm sẽ không thể thực hiện các biện pháp cần thiết phục hồi sản xuất một cách hiệu quả nhất.

Bất động sản tạm thời

Thường thì các nhà máy vẫn có thể có các khoảng trống đủ để làm khu vực tạm, phục vụ sản xuất. Trường hợp như trung tâm thương mại, trung tâm bán lẻ, chợ, cửa hàng tại khu vực trung tâm, việc tìm kiếm một địa điểm khác để bán hàng trong thời hạn gián đoạn là khó khăn. Đặc biệt là ngành nghề của người được bảo hiểm đòi hỏi phải có các tiện ích hạ tầng đi kèm, ví dụ như điện nước điện thoại internet, khu vực lưu kho.

Các tiện ích hạ tầng có sẵn

Các vấn đề về kết nối điện, nước điện thoại, ống ga trung tâm, internet đến bất động sản bị thiệt hại hoặc đến khu vực tạm thời cũng chiếm thời gian khá quan trọng. Nếu thời gian lắp đặt tạm thời các tiện ích này kéo dài, thời gian gián đoạn kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng khá nghiêm trọng

Di dời xà bần

Thời gian di dời xà bần sau tổn thất vật chất, có thể kéo dài nhất là khi việc di dời này phải tuân thủ các qui định về môi trường sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là đối với xà bần nguy hiểm, độc hại. Việc di dời xà bần độc hại phải do một đơn vị thứ ba có chuyên môn đảm nhiệm.

Giấy phép xây dựng

Cần có thời gian xin phép xây dựng lại nhà xưởng bị thiệt hại. Đôi lúc thời gian này kéo dài vài tháng. Trường hợp người được bảo hiểm thuê nhà xưởng, cần phải tìm hiểu thời hạn thuê theo hợp đồng thuê là bao lâu.

Thời gian đấu thầu xây lại

Cần có thời gian đấu thầu thi công lại các hạng mục nhà xưởng máy móc bị phá hủy. Phạm vi công việc cần làm v.v và giá tiền của các công ty dự thầu. Thời gian này cũng phải tính trong thời gian gián đoạn kinh doanh.

Thời gian chờ thay thế thiết bị

Nếu máy móc thiết bị phải nhập khẩu, thời gian vận chuyển chưa được tính vào thời gian gián đoạn kinh doanh. Đối với các máy móc thiết bị phức tạp, thời gian này khá dài.

Thời gian lắp đặt, chạy thử không tải và có tải.

Sau khi xây dựng xong nhà xưởng thì việc lắp đặt các thiết bị, phương tiện cần thiết điện điện thoại, máy tính cũng chiếm thời gian đáng kể có thể vài tuần.

Tương tự, các thiết bị, máy móc cũng cần thời gian lắp đặt, vận hành thử không tải có tải. Thời gian cần thiết lắp đặt vận hành các thiết bị máy móc phải được tính đến. Và thời gian này cũng kéo dài thời hạn gián đoạn kinh doanh

Thời gian di chuyển về bất động sản cũ

Nếu doanh nghiệp sử dụng khu vực tạm để sản xuất khi có tổn thất xảy ra, người được bảo hiểm phải quay trở về cư sở kinh doanh cũ.

Kiếm lại khách hàng

Thời gian tìm lại những khách hàng đã mất là một quá trình rất khó đánh giá. Ngay khi bất động sản, máy móc thiết bị, năng lực sản xuất đã phục hồi hoàn toàn, người được bảo hiểm vẫn có quyền đòi bồi thường cho phần thu nhập bị mất vì lý do doanh thu chưa quay trở về thời kỳ trước sự cố, cho đến khi thời hạn bồi thường qui định trong đơn bảo hiểm chấm dứt.

Kết luận

Cần tư vấn thời hạn bồi thường đủ để đảm bảo thời gian cho rất nhiều hoạt động khắc phục sự cố thiệt hại vật chất. Theo thống kê, thời hạn bồi thường tiêu chuẩn 12 tháng hầu như không đáp ứng được nhu cầu của người được bảo hiểm khi có sự cố. Thường thì thời hạn 24 tháng là phù hợp nhất cho hầu hết các loại hình nghề nghiệp. Thời gian này đủ đảm bảo cho người được bảo hiểm phục hồi về trạng thái kinh doanh trước tổn thất.

Kiến thức bảo hiểm - Doãn Quỳnh Trang


Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

Chi phí khấu hao trong giải quyết bồi thường gián đoạn kinh doanh

Nếu có anh em nào bên giám định coi khấu hao là được bồi thường theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh thì cần suy xét một số các vấn đề sau đây.

Mặc dù khi tính số tiền bảo hiểm, công ty bảo hiểm hoàn toàn không đặt chi phí khấu hao ra ngoài số tiền bảo hiểm vì nghiễm nhiên nó là chi phí cố định. Nhưng khi giải quyết bồi thường, có nhiều công ty bảo hiểm, công ty định giá tổn thất coi khấu hao là tiền tiết kiệm được và trừ vào số tiền bồi thường. Điều này có thể hiểu là chi phí khấu hao được bảo hiểm, nhưng không được bồi thường. Tệ hơn nó còn bị cấn trừ vào số tiền bồi thường.

Khấu hao là chi phí cố định, nhưng chi phí cố định này là chi phí ảo. Tiếng anh gọi là Non-cash account. Tài khoản khấu hao tài sản cố định cũng hạch toán không giống ai. Nó đi từ phải qua trái thay vì trái qua phải như các tài khoản khác. Ví dụ, một tài sản cố định khi mua về, người mua đã phải thanh toán tiền, và tiền đó không sớm thì muộn cũng trừ vào tài khoản của công ty. Và  xét về mặt tiền, công ty bị âm đi một khoản kha khá. Nhưng trên báo cáo tài chính, công ty phải lên một tài khoản khấu hao giả sử 20% cho 5 năm khấu hao hết, tức là trên sổ sách chỉ âm 20% so với khoản tiền thực bỏ ra.

Chi phí khấu hao hoàn toàn do người mua lựa chọn theo vài phương pháp của nhà nước qui định. Người mua sẽ lựa chọn phương pháp nào họ cảm thấy có lợi nhất, ít phải đóng thuế nhất. Và do vậy, chi phí khấu hao hoàn toàn chả có ý nghĩa gì về vật chất. Ví dụ, công ty vốn 100k, mua 1 cỗ máy 100k, coi như trong két tiền là sạch sành sanh. Nhưng về mặt pháp luật, công ty chỉ được phép ghi 20k chi phí cố định. Giả sử năm đó công ty dùng cỗ máy bán được 100k tiền hàng, chi phí sản xuất 50k, lợi nhuận 50k. Chi phí khấu hao cỗ máy cố định theo qui định nhà nước là 20k, lời 30k và phải trả thuế doanh nghiệp trên số tiền này. Thực tế công ty đã phải thanh toán 100k chứ không phải 20k trong sổ sách báo thuế. Do vậy, nhà nước đưa ra một số lựa chọn khấu hao để doanh nghiệp tự tính toán xem phương án nào ít phải đóng thuế nhất.

Thường thì khi ký kết bảo hiểm, tài sản cố định đã được liệt kê trong số tiền bảo hiểm thiệt hại vật chất, và nghiễm nhiên khi có tổn thất sẽ được bồi thường theo đơn vật chất. Khoản tiền khấu hao gắn liền với tài sản ấy không còn giá trị, chả có lý do gì được bồi thường theo đơn gián đoạn kinh doanh.

Khi tài sản bị tổn thất, không có lý do gì người được bảo hiểm kê vào khoản chi phí khấu hao cho tài sản đã mất. Điều này, được xác định trong qui tắc kế toán.

Vấn đề nữa, trong có ba bản báo cáo tài chính thường xuyên của người được bảo hiểm, báo cáo lưu chuyển tiền tệ nếu dùng phương pháp gián tiếp, người đọc sẽ thấy rõ, chi phí khấu hao mặc dù được gọi là chi phí, nhưng nó lại kết dương ở báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo chỉ rõ sức khỏe của công ty vào thời điểm hiện tại, công ty có tiền mặt hay không, và số tiền là bao nhiêu. Điều này có nghĩa là chi phí khấu hao là khoản tiền tiết kiệm được của công ty trong quá trình kinh doanh, chứ không phải là một chi phí thuần túy. Công ty bảo hiểm, nhằm đảm bảo tính an toàn theo nguyên tắc bồi thường, sẽ phải trừ khoản tiền này vào số tiền bồi thường.

Kiến thức bảo hiểm - Doãn Quỳnh Trang

Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2013

Hướng dẫn thẩm định bảo hiểm, khai thác kho hàng đa chủng loại theo AM Best (tiếp theo 2)

Trách nhiệm chung: của hoạt động tại bất động sản tọa lạc

Phơi nhiễm: Trơn, trượt, té, ngã. Nhân viên kiểm kê có thể ngã từ trên cao. Nếu kho hàng, dùng làm chỗ bán hàng luôn, hoặc gần đường tàu hỏa thì rủi ro phơi nhiễm sẽ cao hơn

Kiểm tra tại chỗ

ü  Sơ đồ kho hàng?
ü  Chiều cao kho hàng, chiều cao giá để hàng, có để hàng 2 lớp trên 1 kệ không?
ü  Có khu vực thiết kế riêng để chứa hàng lỏng dễ cháy và các loại khí gas khác?
ü  Nếu là hàng thực phẩm, trong kho có phòng kiểm tra không?
ü  Trong kho có khu vực biệt lập lưu kho hàng ngoại quan?
ü  Có cầu cảng, khu vực bốc dỡ hàng riêng cho lưu thủy và đường sắt
ü  Có bảng báo hiệu giới hạn số người ra vào kho
ü  Cầu thang có bậc thang không trơn trượt và tay vịn cứng, chắc, có đủ ánh sáng
ü  Có khu vực đông lạnh?
ü  Có gương cầu lồi bố trí tại các góc mù và ở cuối mỗi lối đi để tránh va chạm giữa người đi bộ và xe nâng
ü  Có bảng giới hạn tốc độ, và các chỉ dấu cảnh báo khác như “Bốc dỡ cẩn thận”, “Giữ hành lang thông thoáng”
ü  Thang, bậc, ghế leo, có tốt?
ü  Bảng “Không hút thuốc” phải có mặt ở khắp mọi nơi
ü  Đèn sáng đêm, hàng rào, cảnh báo “không phận sự miễn vào” để giảm thiểu khách không mời
ü  Cửa chính có người an ninh 24/7
ü  Khu vực vỉa hè xung quanh kho, khu vực đậu xe sạch sẽ thông thoáng? Cầu thang bên ngoài có tay vịn vững vàng?

Các tài sản cần kiểm tra

ü  Giờ làm việc của kho? 24 giờ liên tục?
ü  Hoạt động vào thời gian cao điểm tháng 9-12 của kho tăng hơn bình thường bao nhiêu?
ü  Lưu lượng khách ra vào kho hàng ngày?
ü  Số lần kiểm tra bất thường của cơ quan quản lý nhà nước?
ü  Khi đội kiểm kê hoặc cơ quan quản lý vào khu vực lưu kho, cần phải có nhân viên có kinh nghiệm đi kèm?
ü  Cửa kho luôn có chế độ khóa tự động 24/7
ü  Thang máy được bảo trì thường xuyên
ü  Người bảo trì thang máy là nhân viên công ty hay thuê ngoài, bằng cấp chứng chỉ kinh nghiệm?
ü  Tinh thần cảnh giác và vệ sinh cao độ toàn nhà kho
ü  Có biển báo cảnh giới ở khu vực bị chảy rò hàng lỏng
ü  Phải có ít nhất một nhân viên vệ sinh toàn thời gian cho mỗi một kho, có chứng chỉ chuyên môn, kinh nghiệm
ü  Qui tắc cấm hút thuốc?
ü  Khi cơ quan nhà nước kiểm tra kho đông lạnh, phải cung cấp đủ quần áo bảo hộ (mặt nạ, găng tay, áo choàng v.v)?
ü  Người ngoài có vào phụ giúp bốc dỡ hàng?
ü  Người vận hành xe nâng được đào tạo? kinh nghiệm, có chứng chỉ phù hợp
ü  Bánh xe tải phải có cục chặn khi bốc dỡ hàng
ü  Thời gian biểu bốc dỡ hàng cụ thể tại khu bốc dỡ?
ü  Khách vào kho không được đi vào khu lưu giữ hàng
ü  Nhân viên kiểm kê vào kho kiểm kê cho khách hàng phải có thang, ghế để có thể leo cao an toàn
ü  Người được bảo hiểm có tổ chức bán hàng ngay tại kho? Cần phải có bản đồ, dấu hiệu chỉ dẫn cụ thể từng khu vực mặt hàng
ü  Cần có nhiều nhân viên tham dực khi cần thiết để phục vụ người mua hàng
ü  Nếu người được bảo hiểm có chỗ đỗ xe chung với các đơn vị khác, phân chia trách nhiệm đến đâu?
ü  Có đội bảo vệ thường xuyên tuần tra xung quanh các kho
ü  Đội bảo vệ được người được bảo hiểm trực tiếp thuê từng người, hay thuê qua một công ty bảo vệ có tiếng? Nếu tự thuê, kinh nghiệm, đào tạo của họ đến đâu? Nếu thuê từ công ty, uy tín của công ty đến đâu, có lịch sử thế nào?
ü  Có sử dụng chó bảo vệ?
ü  Nếu có khu vực kiểm soát an ninh, mọi người đều phải đi ngang qua lúc vào cũng như ra

ü  Nếu kho hàng dùng nhiều xe nâng về đêm, đường vận chuyển phải có đèn chiếu đủ sáng

Thứ Năm, 15 tháng 8, 2013

Bảo hiểm Bắt cóc, tống tiền

Bài dưới đây lấy từ website của Bảo việt. Đây là một sản phẩm hay, và bài báo đã giới thiệu khái quát về phạm vi bảo hiểm. Tôi xin ăn theo nói leo một tí về phạm vi bảo hiểm cho nó đẹp hồ sơ.

Đây là đơn bảo hiểm riêng biệt tách ra từ một điều khoản phụ của đơn bảo hiểm tội phạm với nội dung cụ thể hơn và phạm vi bảo hiểm rộng hơn. Các khái niệm Bắc cóc, Tống tiền khá gắn kết với nhau. Phạm vi ngữ nghĩa là tương đối trùng lắp. Do vậy đơn bảo hiểm này có phạm vi bảo hiểm phổ quát cho cả hai.

Bắt cóc là dùng vũ lực hoặc lừa đảo giam giữ người trái phép.

Tống tiền là hành vi đe dọa tính mạng một người để tước đoạt tiền của một người khác hoặc ép buộc thi hành mệnh lệnh

Tiền thế chân là tiền hoặc bất cứ tài sản gì phải trả để chuộc người bị bắt cóc hoặc thanh toán cho kẻ chủ mưu tống tiền.

Tuy nhiên, mỗi một đơn bảo hiểm đều có định nghĩa khác nhau về ba khái niệm trên.

Một đơn bảo hiểm bắt cóc tống tiền chi trả cho những mất mát về tài chính khi bị bắt cóc hoặc đe dọa tống tiền. Do vậy, loại tổn thất được bảo hiểm bao gồm các khoản sau:

·         Tổn thất do phải thanh toán tiền thế chân, hoặc tài sản có giá trị, hoặc nhiệm vụ theo yêu cầu của nhóm bắt cóc, đe dọa tống tiền.
·         Chi phí phải trả để giải phóng người bị bắt cóc hoặc đáp ứng yêu cầu của nhóm tống tiền.
·         Tổn thất tiền hoặc tài sản khác trong khi vận chuyển tài vật đến địa điểm yêu cầu
·         Trách nhiệm pháp lý của người được bảo hiểm cho các khiếu nại của bên thứ ba yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh do không thực hiện các biện pháp cần thiết ngăn chặn bắt cóc tống tiền.
·         Chi phí di chuyển nạn nhân về nước, hoặc về nơi sinh sống
·         Khoản tiền xác định trước theo mẫu của công ty bảo hiểm khi nạn nhân chết, hoặc thương tật do vụ bắt cóc tống tiền
·         Chi phí thu hồi sản phẩm của người được bảo hiểm trong trường hợp bị đe dọa làm hư hỏng
·         Tổn thất mất thu nhập, hoặc các chi phí phát sinh từ việc bắt cóc tống tiền.

Các công ty bảo hiểm đã bán sản phẩm này từ nhiều năm và có đội ngũ chuyên nghiệp thẩm định bảo hiểm, có quan hệ chiến lược lâu dài với các đơn vị an ninh, bảo vệ. Công ty bảo hiểm cũng có thể cung cấp các dịch vụ đề phòng hạn chế tổn thất cho riêng loại nghiệp vụ này thông qua các đối tác của mình. Dịch vụ này trong nhiều trường hợp, thu lợi nhiều hơn phí bảo hiểm.


Bảo hiểm khi bị bắt cóc, tống tiền

Thế giới ngày một phát triển, nhưng không thể khẳng định rằng cuộc sống con người được an toàn hơn và người ta phải tìm mọi cách giảm thiểu những tổn thất nếu có. Đó là lý do để một trong những lĩnh vực tài chính sinh sau, đẻ muộn nhưng đang phát triển với tốc độ rất nhanh: bảo hiểm, có nhiều loại hình bảo hiểm, trong đó có cả những hình thức đầy nhạy cảm như bảo lãnh những trường hợp rủi ro bị bị bắt cóc, tống tiền.
Năm 1932, cả thế giới đã phải bàng hoàng về việc đứa con mới sinh của Charles Linbergh (1902-1974), một phi công nổi tiếng người Mỹ, là người đầu tiên thực hiện chuyến bay thành công qua Đại Tây Dương, bị bắt cóc tại một nhà trẻ ở Mỹ. Bọn bắt cóc đã đòi một số tiền chuộc khá lớn so với thời bấy giờ, chúng đã có tiền chuộc nhưng thật bất công, đứa trẻ được tìm thấy đã chết trong một khu rừng ở New Jersey. Vụ bắt cóc đứa con của Linbergh đã gây một cú sốc kéo dài đến tâm lý người dân Mỹ, nó cũng có một tác động lâu dài với nền công nghiệp bảo hiểm trên toàn cầu. Sau vụ này, hãng bảo hiểm uy tín nhất lúc bấy giờ là Lloyd’s of London (Anh) đã tung ngay ra dịch vụ bán bảo hiểm rủi ro bị bắt cóc, tống tiền cho một số khách hàng tiềm năng là những người nổi tiếng, giàu có…
Từ đó đến nay đã trên 70 năm, hình thức bảo hiểm bắt cóc, đòi tiền chuộc (thuật ngữ chuyên môn là K&R (kidnap & ransom) đã không ngừng mở rộng với mức doanh thu phí bảo hiểm hàng năm lên tới 250 triệu USD (Tạp chí Nhà kinh tế số ra 24/8/2006). Đặc biệt là sau sự kiện nước Mỹ bị khủng bố ngày 11/9/2001và tình hình có vẻ bùng nổ nạn bắt cóc ở khắp nơi trên thế giới, người ta có cảm giác cuộc sống trở nên bất an hơn nên nhu cầu về loại hình bảo hiểm này cũng nhiều hơn. Đi đầu trong việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm này hiện nay là Hiscox (một công ty con thuộc Lloyd’s of London), AIG (Tập đoàn bảo hiểm của Mỹ) hay Chubb (Công ty đa quốc gia).
Ở Mỹ, có ít nhất 60% các công ty lớn nằm trong top 500 thực hiện chính sách bảo hiểm K&R. Không chỉ những nhà lãnh đạo, điều hành mới được mua bảo hiểm mà cả những kỹ sư thực địa làm việc ở những nơi xa xôi, dễ bị bắt làm con tin. Nhiều ngân hàng trên thế giới cũng đã bắt đầu vận động những khách hàng lớn, từ các nguyên thủ quốc gia, giám đốc điều hành các tập đoàn kinh tế lớn đến các ngôi sao thể thao, nghệ thuật … tham gia mua bảo hiểm thân thể.
Khi nền kinh tế đã trở nên toàn cầu hóa thì hiểm họa bị bắt cóc cũng được quốc tế hóa. Rất khó để lượng hóa được cụ thể tình hình vì có nhiều trường hợp người bị hại không khai báo. Nhiều khu vực trên thế giới, K&R rất đáng báo động. Ở Châu Phi, Nigeria là một điểm nóng, chỉ trong tháng 8 vừa qua, đã có tới 17 người nước ngoài bị bắt cóc, trong đó có cả người Anh, Mỹ, Pháp, Philipines và Ukraina … Gần đây nhất, trong tuần qua, có tới 6 kỹ sư dầu khí người nước ngoài làm việc tại Nigeria đã bị bắt cóc và số phận của họ cho đến bây giờ vẫn chưa rõ. Các Tập đoàn dầu khí lớn đang làm ăn ở đây hiện đã tự tìm cách tăng cường an ninh và giảm bớt số nhân công.
Những kẻ thực hiện việc bắt cóc, tống tiền cũng ngày càng tinh vi từ những tên du côn, trộm vặt đến những tội phạm có tính chuyên nghiệp và tổ chức cao như FARC ở Colombia (Nam Mỹ). Động cơ của những vụ bắt cóc hầu hết là đòi tiền chuộc. Ở Achentia và Mexico, nhiều vụ bắt cóc được phát hiện có dính lứu đến cảnh sát. Có cả những hành vi bắt cóc mà các tổ chức bảo hiểm gọi một cách lịch sự là “trì hoãn không báo trước”, đó là việc các công ty nội địa tìm cách gây ảnh hưởng với các đối tác nước ngoài trong quá trình đàm phán kinh doanh bằng cách đẩy họ vào thế bị hạn chế đi lại do trước đó các công ty này ngầm thỏa thuận với lực lượng an ninh hoặc chính quyền địa phương đề ra một số quy định kiểm soát bất lợi cho phía nước ngoài.
Những người đóng phí bảo hiểm cho bản thân mình thường được các hãng bảo hiểm rất ưu ái, họ sẽ được bảo hiểm hầu như mọi thứ từ khoản tiền chuộc nếu bị bắt cóc, khoản lương bị mất, bồi thường nếu bị chết hoặc thương tật, chi phí đi lại cho gia đình và đồng nghiệp, thậm chí cả tiền thuê luật sư … Những tổ chức tham gia bảo hiểm loại này còn được bảo hiểm khủng hoảng quản lý trong trường hợp nhân sự quan trọng bị bắt cóc. Nếu có nhân viên nào bị bắt cóc, tống tiền, các khách hàng của AIG hay Chubb sẽ được các hãng “lo lắng” từ việc đàm phán với những kẻ bắt cóc đến phối hợp với cảnh sát hoặc Luật sư và có thể cả việc “chuyển tiền chuộc”… Một số hãng bảo hiểm lớn thường sử dụng các nhân viên ngành an ninh đã về hưu hoặc chuyển ngạch.
Mức phí bảo hiểm và phí tổn liên quan mà một khách hàng là tổ chức phải trả cho các hãng bảo hiểm phụ thuộc vào quy mô, loại hình doanh nghiệp, uy tín thương hiệu, địa bàn hoạt động và cả tình hình an ninh trật tự chung. Ở Mỹ, một công ty cỡ vừa thường phải đóng mức phí 500USD mỗi năm để được hưởng khoản bảo hiểm l triệu USD, còn các công ty lớn, đa quốc gia phải đóng tới 50.000 USD để có thể được bồi thường tới 25 triệu USD.
Với loại hình bảo hiểm nhạy cảm này thì vấn đề bí mật là rất quan trọng. Các hãng bảo hiểm có quyền hủy hợp đồng nếu khách hàng để lộ việc tham gia bảo hiểm với bên thứ ba, thậm chí là với khách hàng quen hoặc bạn bè. Đó là vì ở một số nơi và trong nhiều trường hợp, một cá nhân hay tổ chức tham gia bảo hiềm có thể là đối tượng rất hấp dẫn bọn bắt cóc vì chúng biết rằng đối tượng có thể không có nhiều tiền nhưng hãng bảo hiểm thì chắc chắn … rất giàu!


Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

Hướng dẫn thẩm định bảo hiểm, khai thác kho hàng đa chủng loại theo AM Best (tiếp)

Nguyên vật liệu và thiết bị

Thiết bị xử lý di dời nguyên vật liệu, bao gồm xe nâng, xe cần cẩu nâng hàng, xe cút kít, xe cút kít thủy lực, xe nâng xoay thùng hàng, vật liệu gói hàng, nguyên liệu vệ sinh, tấm để hàng, giá đỡ, kệ để hàng, máy in mã vạch, máy quét mã vạch, máy tính, phần mềm, bộ điều nhiệt điều khiển bằng máy tính, máy làm nước đá, thiết bị cấp đông.

Phơi nhiễm (exposure) và kiểm soát Trách nhiệm xe cơ giới

Phơi nhiễm với cường độ xe qua lại, thời tiết giá lạnh ẩm ướt.

Kiểm tra tại chỗ

ü  Số lượng xe, số hiệu, tuổi, loại, tình trạng.

Danh mục cần kiểm tra

ü  Nhân viên có dùng xe máy, xe hơi riêng dùng cho công việc
ü  Giới hạn bảo hiểm trách nhiệm của các xe sở hữu cá nhân
ü  Lái xe, tuổi, kinh nghiệm, giấy phép lái xe, lý lịch tai nạn của lái xe
ü  Lái xe tải, xe rơ mooc có giấy phép phù hợp?
ü  Cường độ chuyên chở và bán kính hoạt động vận chuyển?
ü  Khi nhân viên di chuyển đến các buổi hội thảo, đào tạo, thì dùng xe của công ty, xe cá nhân hay phương tiện vận chuyển công cộng?
ü  Lái xe có tìm thời gian thấp điểm để vận chuyển hàng? Xe có thường bật đèn khi gặp thời tiết xấu?
ü  Lái xe có thuộc đường không?
ü  Người được bảo hiểm có chính sách tầm soát sử dụng điện thoại di động khi lái xe? Nếu được phép sử dụng khi lái thì có dùng chế độ handfree hay dùng tai nghe có phone và người được bảo hiểm có cung cấp các thiết bị này không?
ü  Có chương trình đào tạo an toàn cho lái xe?
ü  Bảo trì thường xuyên và kiểm tra đối với tất cả các xe của công ty
ü  Chất lượng của cán bộ kỹ thuật xe của công ty? Có được chứng nhận nào, kinh nghiệm?
ü  Nhân viên không được can dự vào việc bảo trì sửa chữa xe của công ty

Hướng dẫn thẩm định bảo hiểm, khai thác kho hàng đa chủng loại theo AM Best

Hướng dẫn khai thác kho hàng tôi thu thập được dưới đây theo báo cáo của AM Best. Báo cáo này không miễn phí. Giá của nó là 45 đô la Mỹ. Và viết lại cho độc giả hiểu thêm về đề tài này đòi hỏi công sức không nhỏ.

Loại hình nghiệp vụ có liên quan đến kho hàng chủ yếu là trách nhiệm xe cơ giới, trách nhiệm công cộng, trách nhiệm pháp lý của đơn vị vận hành kho bãi, trách nhiệm của người thuê lao động, các loại tội phạm, tài sản, hỏa hoạn, gián đoạn kinh doanh, vận chuyển nội địa.

Hướng dẫn khai thác kho hàng này là kiến thức phổ quát bao gồm cho các loại kho hàng bến bãi chung, kho hàng bến bãi sản phẩm nông nghiệp, kho cho các loại hàng hóa khác. Các hoạt động có liên quan đến chuyển dịch thực phẩm, di dời và lưu kho, kho hàng hóa đông lạnh chung, các phương tiện lưu kho khác. Còn chi tiết hướng dẫn cho từng loại kho hàng thì Best có hướng dẫn riêng

Mô tả rủi ro

Kho hàng chung cung cấp dịch vụ lưu kho ngắn hạn, dài hạn cho nguyên vật liệu, các loại hàng hóa bán thành phẩm, bộ phận, hàng thành phẩm sau khi chuyển từ cảng biển về hoặc trong giai đoạn trung chuyển giữa các giai đoạn sản xuất trước khi xuất xưởng, hay trước khi chuyển cho nhà phân phối hay nhà bán lẻ. Thời gian lưu kho có thể từ vài giờ đến vài năm tùy theo nhu cầu của khách hàng. Có khá nhiều người được bảo hiểm chỉ trả tiền cho địa điểm sang hàng từ phương tiện này sang phương tiện khác mà không cần lưu kho. Dịch vụ này cũng được các công ty điều hành kho hàng cung cấp.

Đối với người được bảo hiểm xử lý các loại hàng thực phẩm cho người và gia súc, họ có nhiệm vụ phải tuân thủ các qui tắc pháp luật về vấn đề này. Họ phải cung cấp biên bản kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm định kỳ của cơ quan quản lý, và biên bản về vệ sinh môi trường của cơ quan bảo vệ môi trường. Đồng thời người được bảo hiểm cũng phải tuân thủ mọi qui tắc pháp luật về xử lý chế biến vận chuyển hàng thực phẩm.

Đối với kho hàng nhập khẩu, nếu muốn thông quan, phải có cơ quan đến kiểm tra về độ an toàn của hàng hóa.

Với môi trường kinh doanh hiện đại, rất nhiều doanh nghiệp chỉ kinh doanh cung cấp kho hàng ở rất nhiều nơi, nhiều khu vực địa lý khác nhau ở những vị trí đôi lúc khá đặc thù ví dụ như, gần cầu cảng, vịnh, cửa sông, cảng, nơi có lưu lượng thuyền bè tàu hàng qua lại lớn. Ngoài ra, kho hàng còn có thể nằm ngay cạnh đường ga tàu hỏa, đường quốc lộ, hoặc gần cả hai tuyến đường trên. Vị trí của kho hàng sẽ nằm ở điểm cho phép xe tải ra vào liên tục, thuận tiện cho các công ty vận tải hàng.

Vấn đề thanh toán hóa đơn vận tải diễn ra nhanh chóng bằng chuyển khoản điện tử. Giá tiền lưu kho tùy thuộc vào người được bảo hiểm quyết định theo tính năng kho hàng của họ. Có một số định giá lưu kho trên cơ sở khối lượng của hàng hóa, một số khác định giá trên cơ sở thể tích của hàng. Giá này sẽ được nhân lên với thời gian lưu kho. Do khách hàng có thể yêu cầu lưu kho vài giờ để chung chuyển hoặc lưu kho dài hạn, nên thời gian này sẽ được tính theo giờ hay theo tháng. Theo giờ, giá khác, theo tháng, giá khác. Nếu lưu kho dài hạn, thời gian tính lưu kho theo tháng bắt đầu kể từ ngày lưu kho.

Kết cấu kho hàng có thể là, gạch, thép tiền chế, khung nhôm, đá. Kho có thể có nhiều khuôn viên, trong mỗi khuôn viên được chia nhỏ thành nhiều khu vực khác nhau, thường chỉ có một tầng trệt. Tuy nhiên, chiều cao của mỗi kho hàng có thể lên đến 13m. Bên trong của kho có kê giá để hàng cao từ 8 đến 9 tầng. Hàng để trên kệ, giá đỡ có thể xếp từ 1 đến hai lớp song song. Khi sắp theo hai lớp song song với nhau thì mỗi mặt đều phải hướng ra lối đi để dễ di dời. Khoảng cách giữa các giá đỡ, kệ để hàng phải sắp có độ rộng cần thiết để các phương tiện di dời như folklift có thể hoạt động tốt không bị cản trở. Sơ đồ giá, kệ để hàng trong một kho phải được dán ở khu vực cửa ra vào, khu tháo dỡ hàng, tại địa điểm chung dùng để đóng gói, tại văn phòng làm việc và trong phòng vệ sinh.

Đôi lúc kho hàng cũng có dự trữ một khu vực riêng dùng để lưu các loại kho hàng dễ cháy, xăng dầu, các loại khí gas hóa lỏng dễ cháy. Nếu là kho hàng thực phẩm, cần phải có phòng kiểm tra thực phẩm ngay tại kho. Cần phải có khu vực riêng, biệt lập để lưu kho hàng nhập khẩu, chưa thuế. Một số kho hàng có thêm cảng hoặc đường ray xe lửa phụ, thuộc sở hữu của người được bảo hiểm. Có thể có khu văn phòng làm việc và khu nhà nghỉ của nhân viên nằm ngay trong khuôn viên kho hàng.

Một số kho hàng, hoạt động liên tục từ 18-24 giờ một ngày từ thứ 2 đến thứ 7 để phục vụ nhu cầu cao của khách hàng, và chỉ đóng cửa vào ngày lễ và chủ nhật. trong nhiều trường hợp, hàng đến kho vào thời điểm nửa đêm do tắc đường, kẹt xe v.v đòi hỏi kho phải hoạt động thêm giờ để phục vụ khách hàng. Nhu cầu khách hàng cũng thay đổi thường xuyên trong năm, lúc nhiều lúc ít. Tuy nhiên, đối với hoạt động lưu kho cho nhà bán lẻ thì hoạt động thường cao vào dịp cuối năm, khoảng từ tháng 9 trở đi.

Kho hàng có thể từ loại nhỏ có 10 nhân viên đến loại lớn có hơn 100 nhân viên. Hầu hết đã gia nhập công đoàn và công đoàn có tiếng nói quan trọng trong việc ấn định giờ giấc ca kíp làm việc. Người quản lý tại kho, quán xuyến hoạt động của kho hàng. Người quản lý kho có nhiệm vụ báo cáo trực tiếp cho giám đốc vận hành, là người quản lý toàn bộ hoạt động của đơn vị. Người quản lý tại kho chịu trách nhiệm vận hành kho bao gồm hàng nhập, xuất, sắp hàng lên, dỡ hàng xuống, kiểm kê hàng. Nhân viên kiểm tra, kiểm tra hàng đến và vận đơn. Nhân viên tại khu trung chuyển có trách nhiệm bốc dỡ hàng. Nhân viên vận hành xe nâng và nhân viên quản lý tòa nhà. Nhân viên vệ sinh đóng vai trò rất quan trọng, họ có nhiệm vụ đảm bảo kho luôn vệ sinh, sạch sẽ toàn bộ khu vực. Đối với kho chứa thực phẩm, chỉ cần thiếu vệ sinh có thể bị phạt rất nặng.

Phần lớn người được bảo hiểm đều có trưởng phòng quản trị rủi ro có trách nhiệm về an toàn cho toàn bộ nhà xưởng, và một nhân viên thường trực, hoặc thay phiên thường trực 24/7 đề phòng trường hợp khẩn cấp. Nhân viên văn phòng có nhiệm vụ hỗ trợ khách hàng lưu kho, vận tải, lên lịch trình lấy hàng và chuyển hàng, thu xếp phương tiện vận tải và kế toán viên xử lý giấy tờ thanh toán, thu đòi công nợ. Nhân viên bán hàng, đàm phán ký kết, tái tục hợp đồng với khách hàng, thời gian của nhân viên bán hàng hoàn toàn do họ tự chủ sắp xếp, lên kế hoạch, gọi điện v.v

Phần lớn nhân viên được đào tạo tại chỗ dắt tay chỉ việc. Đôi lúc, cũng có một số lớp học đào tạo ngay tại chỗ của các nhân viên có kinh nghiệm qua các hội thảo. Ngoài ra, có một số trường đào tạo nghề cho các nhân viên vận hành kho hàng, nhân viên vận hành xe nâng phải có chứng chỉ nghề. Nhân viên văn phòng, cần có trình độ văn hóa đủ đáp ứng yêu cầu công việc.

Thường, thì hàng hóa được vận chuyển đến kho hàng trực tiếp từ nhà sản xuất có thể là xe tải, xe lửa, tàu thủy. Khi hàng được dỡ xuống, nhân viên kiểm tra hàng với vận đơn xem có khớp không. Nếu hàng được chở đến để lưu kho, nhân viên sẽ có nhiệm vụ ghi biên bản nhận hàng xác nhận hàng đã được lưu kho. Biên nhận, cần phải có mã hàng, ngày, mô tả, khối lượng, thể tích, số lượng, điều kiện điều khoản của hợp đồng lưu kho, giới hạn trách nhiệm của công ty bảo hiểm. Phần lớn hàng đến nơi đã đóng gói, tuy nhiên người được bảo hiểm vẫn có thể cung cấp dịch vụ này.

Ngay khi kho hàng nhận hàng, cần thiết phải có thông báo chính thức cho chủ hàng qua email, điện thoại, thư thương mại, fax. Sau khi hàng đã nhập kho, các kiện hàng đều phải ghi mã vạch để tiện kiểm kê và rà soát. Quản lý kho hàng tận tay ghi chỉ dẫn vị trí từng kiện hàng trong kho. Mỗi một vị trí kệ để hàng cũng phải có mã vạch. Truy tìm hàng trong kho đều phải sử dụng hệ thống máy tính. Sau đó, phải có hệ thống chuyển hàng bằng xe nâng đưa hàng vào đúng vị trí kệ để hàng. Nếu là lưu kho dài hạn, người được bảo hiểm có thể cung cấp dịch vụ kiểm kê hàng cho khách hàng.

99% hàng hóa được nhân viên của người được bảo hiểm xử lý bốc dỡ di dời trong phạm vi kho hàng. Nếu người được bảo hiểm, có nguyên đội xe vận chuyển, họ có thể cung cấp luôn dịch vụ vận chuyển cho khách hàng bên ngoài kho hàng, thêm phí. Trước khi hàng xuất kho, bằng xe tải, tàu hỏa, tàu thủy đều phải kiểm tra và kiểm kê, sau đó bốc hàng.

Ngành nghề này dựa hoàn toàn vào hệ thống máy tính truy xuất vị trí hàng. Một số doanh nghiệp còn cung cấp website để khách hàng có thể truy nhập trực tuyến tìm vị trí của hàng trong hành trình.

(còn tiếp)