Từ Thiệt hại “damage” là một từ quá phổ thông, ai
cũng hiểu và do vậy đôi khi không được định nghĩa cụ thể trong đơn bảo hiểm.
Thường thì định nghĩa chung cho hai từ ví dụ tổn thất hay thiệt hại, tổn
thất vật chất, phá hủy hay thiệt hại, tổn thất vật chất trực tiếp hay phá hủy
hoặc thiệt hại đối với tài sản được bảo hiểm.
Lưu ý là trong đơn bảo hiểm từ nào có viết hoa, từ
đó có trong phần định nghĩa. Từ nào không viết hoa, từ đó được hiểu theo nghĩa
thông thường. Trong các qui tắc bảo hiểm, từ damage đôi khi không viết hoa. Và
trong trường hợp như vậy nó sẽ được hiểu theo nghĩa do tòa án giải thích. Thực
sự khi giải quyết bồi thường công ty bảo hiểm chấp nhận khái niệm thiệt hại rộng
hơn so với cách giải thích của tòa án.
Tổn thất được hiểu theo tòa án, là mất mát vĩnh viễn
có đủ chứng cứ là không thể thu hồi lại được. Do vậy, biệt tích, thất lạc,
không được coi là tổn thất.
Ví dụ trong chiến tranh thế giới thứ nhất, một công
ty vàng bạc đá quí gửi trân châu qua đường biển ngay trước ngày chiến tranh thế
giới nổ ra. Công ty này đứng đơn thay cho người mua kiện công ty bảo hiểm đòi bồi
thường cho số trân châu nói trên và tòa án bác yêu cầu này vì lý do trân châu
đã gửi đi và chưa có chứng cứ đã mất, có thể nó sẽ được chuyên chở tới trong
tương lai không xác định nào đó.
Ngược lại máy bay hành khách của Kuwait bị bắt lấy
trong chiến tranh Iraq được coi là mất tích. Vì tòa án có chứng cứ cụ thể là
sân bay quốc tế của Kuwait bị tấn công và chiếm đóng. Khi sân bay bị chiếm
đóng, tài sản hiện có tại sân bay coi như bị tước đoạt và được coi là tổn thất.
Trái lại một máy bay dân dụng của Anh cũng bị bắt trong cuộc chiến tranh nói trên, bị tòa
án bác bỏ. Lý do là cuộc chiến này có tham dự của không lực hoàng gia Anh, và
khả năng không lực hoàng gia có thể thu hồi tài sản nói trên. Do vậy máy bay
này không được coi là đã mất.
Thiệt hại được hiểu là bị đau, thương tích, hay hư hỏng,
giảm giá trị hoặc, mất một phần hay toàn bộ khả năng sử dụng của một người hay
đồ vật, theo định nghĩa của tòa án. Khái niệm này được ứng dụng linh hoạt trong
quá trình xét xử từng vụ án. Theo nghĩa thông thường, Thiệt hại được hiểu là thiệt
hại đối với cái gì hữu hình, thiệt hại kinh tế không được coi là Thiệt hại
trong bảo hiểm.
Phải có một sự thay đổi vật chất đối với đặc tính của
tài sản dẫn đến nó giảm giá trị hoặc không đáp ứng được nhu cầu sử dụng đòi hỏi
phải có biện pháp khắc phục hoặc chi phí để phục hồi về ban đầu.
Thiệt hại không nhất thiết phải là vĩnh viễn. Ví dụ
bề mặt bị nhiễm bẩn, có thể tẩy sạch hoặc lau sạch là trở về tình trạng ban đầu.
Như vậy, từ khái niệm ngoài đời đến khái niệm của
tòa án, thiệt hại và tổn thất khác nhau. Có thể có tài sản tổn thất, nhưng
không có thiệt hại và có những tài sản có thiệt hại nhưng không có tổn thất. Và
các khái niệm này không trùng khít với khái niệm của đơn bảo hiểm. Và đơn bảo
hiểm không phải lúc nào cũng có định nghĩa. Khi đơn bảo hiểm có định nghĩa, thì
trong đơn bảo hiểm các từ ngữ này xuất hiện đôi lúc không được viết hoa, sẽ lập
tức hiểu theo nghĩa thông thường hoặc nghĩa của tòa án.
Do vậy, cần rà soát đơn bảo hiểm xem đoạn nào viết
thường phải sửa lại thành chữ in hoa cho hợp lý.
Kiến thức bảo hiểm - Doãn Quỳnh Trang
Kiến thức bảo hiểm - Doãn Quỳnh Trang
Cảm ơn bạn đã chia sẻ những kiến thức bổ ích về bảo hiểm
Trả lờiXóa