Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

Một vài nhóm từ lưu ý trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh

Người Mỹ dùng tiếng Anh khác, người Anh dùng ngôn ngữ của mình cũng khác. Các trường ngoại ngữ ngoài Bắc thường lấy tiếng Anh Luân đôn làm chuẩn mực để dạy học trò. Trong khi trong Nam, người ta lại dùng phổ thông tiếng Mỹ. Người Việt thì nói giọng Anh hay giọng Mỹ đều có thể hiểu được với nhau ngoại trừ một số từ cũng như cách hành văn khác nhau đặc thù riêng Anh Mỹ. Ví dụ Fountain người Anh hiểu là đài phun nước, người Mỹ hiểu là thác nước. Hoặc sắp hàng, người Mỹ dùng Line up, người Anh dùng Queue. Tương tự như pavement và sidewalk.

Ngành bảo hiểm cũng có cái lạ. Đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh thì dùng chuẩn Anh, nhưng từ ngữ kinh doanh thông dụng trên thế giới lại là chuẩn Mỹ. Điểm quan trọng hơn là hầu hết các sách vở kinh doanh hiện đại trên thế giới, kế toán tài chính, kế toán quản trị đa phần đều văn phong Mỹ. Dù các giáo sư có cao cấp quí phái cỡ như Harvard hay Stanford thì cũng dùng lối hành văn Mỹ, và ngôn từ cũng Mỹ luôn. Trái lại, các sách về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh thì văn phong toàn Anh, rất rối rắm khó hiểu và rất cao siêu. Ngôn từ cũng vô cùng trí tuệ. Vấn đề nảy sinh khi cả hai nhóm học giả này chả ai chịu nhường ai. Chuyên gia bảo hiểm thì dứt khoát không đổi, và các giáo sư cũng chả thèm quan tâm đến ngôn ngữ bảo hiểm. Kết luận là bọn hậu sinh đọc các tài liệu này mệt nhoài với khái niệm.

Ví dụ trường hợp điển hình nhất, chí phí cố định, sách kinh doanh gọi là fixed cost, sách bảo hiểm gọi là standing charges. Tương tự, chi phí lưu động, người Mỹ gọi là variable cost, chuyên gia bảo hiểm gọi là uninsured working expenses. Ngoài ra, người Anh gọi chi phí đã trả là waste cost, người Mỹ gọi là sunk cost. Income Mỹ, Revenue Anh, Finished Goods Mỹ, Stock Anh.

Rất may là họ còn khá nhiều khái niệm chung với nhau, ví dụ Gross profit, work in progress.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét