Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

Định nghĩa Lợi nhuận gộp có sai biệt với kế toán có thể gây hậu quả

Định nghĩa lợi nhuận gộp theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là Doanh thu cộng số dư cuối kỳ hàng hóa và hàng bán thành phẩm trừ đi số dư đầu kỳ hàng hóa thành phẩm, bán thành phẩm và các chi phí không được bảo hiểm ghi rõ trong danh mục.

Đơn bảo hiểm cho phép người được bảo hiểm liệt kê các chi phí không bảo hiểm trong bản danh mục cụ thể từng đề mục để sau này tránh tranh chấp. Đây không phải là sự ép buộc, vì đơn giản chỉ có người được bảo hiểm mới thực sự hiểu rõ doanh nghiệp mình hoạt động thế nào, và chi phí của họ nằm ở đâu. Do vậy chỉ có người được bảo hiểm mới có thể quyết định được các chi phí nào của họ không cần đến bảo hiểm.

Để giải quyết băn khoăn của người được bảo hiểm, một số doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra hướng dẫn một số các chi phí không cần bảo hiểm như chi phí mua hàng Purchases, hoặc ghi ngay trong định nghĩa lơi nhuận gộp không bao gồm các khoản chi phí ABCD ghi rõ trong bản danh mục. Nhưng bản danh mục lại không đề cập đến danh sách các loại chi phí này.

Vấn nạn

Khái niệm lợi nhuận gộp là khái niệm phổ biến trong cộng đồng kinh doanh, không cần thiết phải có định nghĩa về mặt pháp lý. Anh và Mỹ đều không có định nghĩa pháp lý về lợi nhuận gộp. Không biết ở ta có điều luật nào định nghĩa về lợi nhuận gộp hay không. Trong kế toán tài chính doanh nghiệp theo chuẩn GAAP cũng không có định nghĩa về lợi nhuận gộp. Định nghĩa trên là định nghĩa của đơn bảo hiểm.

Theo báo cáo doanh thu thông thường một doanh nghiệp lợi nhuận gộp sẽ tính như sau

Doanh thu
 125
Số dư đầu kỳ
 20
Nguyên vật liệu
 45
Thuê ngoài
 10
Lương công nhân trực tiếp
 23
Số dư cuối kỳ
(18)
Tổng chi phí hàng hóa
 80
Lợi nhuận gộp
 45
Chi phí quản lý
 15
Chi phí phân phối
 10
Lãi xuất ngân hàng
 5
 30
Lợi nhuận trước thuế
 15

Lơi nhuận gộp theo kế toán là 45 và lợi nhuận gộp theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh như bảng dưới là 78

Doanh thu
125

Số dư cuối kỳ
18

143
Trừ đi

Số dư đầu kỳ
20

Chi phí không bảo hiểm

Nguyên vật liệu
45

65
Lợi nhuận gộp

78

Đa phần các đơn bảo hiểm đều bỏ trống phần danh sách các chi phí không bảo hiểm trong bản Danh mục, và nghiễm nhiên số tiền bảo hiểm sẽ được tính trên cơ sở số 78

Ngoài ra, khái niệm Purchase, mua hàng được hiểu trong các loại sách vở, từ dày đến mỏng là chi phí mua nguyên vật liệu. Các chi phí có đặc tính tương tự ít khi được tính đến ví dụ chi phí thuê ngoài. Một số đơn bảo hiểm định nghĩa cụ thể chi phí mua hàng bao gồm những gì. Đáng tiếc là các chi phí này không khớp với các khoản mục chi phí trong sổ sách kế toán.

Tương tự như lợi nhuận gộp, chi phí mua hàng trong ngôn từ kế toán được đóng khung trong tất tần tật các loại chi phí nhằm hoàn thuế giá trị gia tăng, chả liên quan gì đến chi phí biến đổi hay cố định gì cả. Như vậy khái niệm chi phí mua hàng theo sổ sách kế toán bao gồm chi phí mua từ cái đinh vít đến tờ giấy bao gồm cả chi phí điện nước internet.

Một điều quan trọng khác là khi yêu cầu bảo hiểm, người được bảo hiểm thường chỉ tưởng tượng ra sự cố lớn gây hủy hoại hầu hết nhà xưởng thiết bị. Như vậy, các loại chi phí sản xuất gián tiếp đều giảm tỷ lệ với doanh thu và do vậy không cần thiết phải bảo hiểm. Thực tế, sự cố thiệt hại vật chất đa phần chỉ ảnh hưởng một phần cơ sở sản xuất, và như vậy, một số thiết bị vẫn hoạt động, nhà máy vẫn có thể sản xuất nhưng không đạt hiệu xuất cao. Lúc đó, các chi phí này sẽ từ biến đổi chuyển sang cố định.

Hậu quả

Khác biệt về khái niệm lợi nhuận gộp trong bảo hiểm và lợi nhuận gộp trong cộng đồng doanh nghiệp để lại khá nhiều hệ lụy.

Một số các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất khi lên báo cáo kế toán, trừ các chi phí lương, điện sản xuất, để ra lợi nhuận gộp báo cáo thuế. Số liệu này chả giống gì với yêu cầu theo định nghĩa của đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh.

Đáng nói là hầu hết các doanh nghiệp không đánh giá được tầm quan trọng của việc khai báo thiếu lợi nhuận gộp ngay cả khi công ty bảo hiểm, môi giới, chuyên gia khai thác khuyến cáo tỉ mỉ rằng việc khai báo thiếu sẽ gây bất lợi rất nhiều khi giải quyết bồi thường.

Hậu quả nặng nề nhất có thể là công ty bảo hiểm từ chối bồi thường do khai báo sai, khai báo quá thiếu so với số thực tế, có thể coi là khai báo sai. Trong khi đó công ty bảo hiểm sẽ thất thu phí lớn mà đáng lẽ họ có thể khai thác được. Tưởng tượng một nửa danh mục đơn bảo hiểm tài sản và kỹ thuật có mua gián đoạn kinh doanh với 90% số tiền bảo hiểm khai báo thiếu khoảng 30%, thì thất thu phí là quá đáng. Như ví dụ trên nếu tất cả các đơn đều thất thu 42% phí thì công sức anh em khai thác đã bị lãng phí khá nhiều.

Do vậy, một cách làm là phải giới thiệu ngay cho người được bảo hiểm khi khai thác đơn này về định nghĩa lợi nhuận gộp của đơn khác với lợi nhuận gộp theo báo cáo kế toán thế nào để tránh thiếu hụt doanh thu phí bảo hiểm. Trong trường hợp như vậy, nếu có môi giới tham dự vào, người được bảo hiểm có quyền khởi kiện môi giới vì đã không làm hết trách nhiệm của mình.

Có trường hợp công ty bảo hiểm nhận được bản đề nghị bảo hiểm rất hoàn chỉnh có doanh thu, số đầu, cuối kỳ và số tiền mua hàng trong kỳ. Khi có tổn thất xảy ra mới vỡ lẽ là giám đốc tài chính đã cộng tất tần tật các chi phí mua dài giằng dặc khoảng 3 trang giấy A4 vào một số duy nhất để làm gọn bản khai báo và danh sách đấy không công bố cho môi giới cho đến khi có tổn thất. Trong khi nhà môi giới đã không thông báo gì với giám đốc tài chính của bên được bảo hiểm là chi phí mua hàng chỉ là chi phí mua nguyên vật liệu. Kết quả là người được bảo hiểm đã bảo hiểm dưới giá trị 25%.

Giải pháp

Do khái niệm này bị hiểu lầm quá nhiều và theo nguyên tắc quốc tế về bảo hiểm thì thiệt hại sẽ thuộc về người được bảo hiểm do khai báo sai, khai báo thiếu. Do vậy, cộng đồng các chuyên gia tính toán tổn thất đề nghị đổi khái niệm lợi nhuận gộp bằng một danh từ khác phù hợp hơn. Với khái niệm mới, người được bảo hiểm sẽ phải dành thời gian xem xét và đánh giá khái niệm mới này để có thể lựa chọn chi phí phù hợp hơn với doanh nghiệp của mình.

Khái niệm này có thể là Lợi nhuận bảo hiểm “Insurance Profit”, lợi nhuận có thể được bảo hiểm “Insurable Profit” hay lợi nhuận gộp bảo hiểm “Insurance Gross Profit”. Hiện nay đã có một công ty bảo hiểm lớn đưa vào đơn của mình với khái niệm Lợi nhuận được bảo hiểm “Insured Profit”

Về khái niệm chi phí mua hàng “Purchases”, cần phải có định nghĩa cụ thể hơn ví dụ như chi phí mua hàng thành phẩm, chi phí mua nguyên vật liệu, chi phí mua linh kiện bán thành phẩm v.v… Một số đơn bảo hiểm đã áp dụng phương án này. Chi phí thuê ngoài cũng phải hiểu nằm trong khái niệm chi phí mua hàng.


Do vậy có thể cần có khái niệm mới về chi phí mua hàng Purchases là “purchases of stock, raw materials and components (and/or consumables) and other third party subcontracting costs” Chi phí mua nguyên vật liệu thô, bộ phận và/hoặc các loại hàng khác dùng cho sản xuất và các chi phí thuê ngoài.

Kiến thức bảo hiểm - Doãn Quỳnh Trang

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét