Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

Lợi nhuận gộp trong bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh phương pháp tổng số Addition basis hay phương pháp hiệu số Difference basis

Có hai phương pháp xác định lợi nhuận gộp theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Phương pháp tổng số, chuyên viên khai thác yêu cầu người được bảo hiểm cộng toàn bộ các chi phí được bảo hiểm chung với lợi nhuận ròng sau thuế. Phương pháp hiệu số lấy doanh thu năm tài chính trừ đi các chi phí không được bảo hiểm. Cả hai phương pháp này đồng thời tính đến yếu tố số dư đầu và cuối kỳ hàng trong kho.

Phương pháp tổng số đã lỗi thời và không được các doanh nghiệp bảo hiểm trên thế giới sử dụng nữa. Mức độ phức tạp của phương pháp này thể hiện ở chỗ khách hàng phải xác định hàng loạt các chi phí được bảo hiểm theo định nghĩa là chi phí cố định. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất là khi có sự cố, dẫn đến gián đoạn kinh doanh, người được bảo hiểm mới vỡ lẽ là danh sách khoản mục chi phí được bảo hiểm không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của họ vào thời điểm cuống cuồng chống đỡ hậu quả tổn thất vật chất. Chiếu theo đơn bảo hiểm, người được bảo hiểm thiệt hại khá lớn và rõ ràng không thỏa mãn với đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Số tiền bảo hiểm vì vậy cũng sẽ thấp hơn mức cần thiết dẫn đến khả năng bảo hiểm dưới giá trị rất cao.

Vấn đề tính toán khi giải quyết bồi thường cũng khá phức tạp, công ty xác định tổn thất cần phải qui chiếu xem trong hàng loạt các chi phí người được bảo hiểm nêu ra, chi phí nào được bảo hiểm theo đơn. Sự phức tạp khi đánh giá tổn thất, gây mất thời gian cho cả hai bên, rõ ràng không đáp ứng được vai trò công cụ hỗ trợ phục hồi kinh doanh.

Phương pháp hiệu số là phương pháp sử dụng nhiều nhất, và đã sử dụng được gần cả thế kỷ, và trở thành qui tắc bất biến khi tính toán lợi nhuận gộp đươc bảo hiểm. Tuy vậy, có khá nhiều định nghĩa khác nhau từ các công ty bảo hiểm khác nhau. Cơ bản nhất, đơn giản nhất và chuẩn nhất là định nghĩa của ABI. Nếu có ai đó định nghĩa khác đi, thì cần đánh giá xem ngôn từ của đĩnh nghĩa đấy có an toàn hay không cho công ty bảo hiểm. Định nghĩa đấy phải được qui chiếu về định nghĩa của ABI. Định nghĩa của ABI cũng thay đổi theo thời gian. Cách nay khoảng 15 năm, các tài liệu về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh định nghĩa lợi nhuận gộp theo ABI như sau

The amount by which the sum of the (1) Turnover and the amount of the Closing Stock shall exceed (2) the sum of the amount of the Opening Stock and the amount of the Uninsured Working Expenses.

Note:  The amounts of the opening and closing stocks shall be arrived at in accordance with the Insured’s normal accountancy methods, due provision being made for depreciation.

Note: The words and expressions used in this definition shall have the meaning usually attached to them in the books and accounts including Uninsured Working Expenses listed in the Schedule.


và định nghĩa gần đây

The amount by which the sum of the (1) Turnover and the amount of the Closing Stock and work in progress shall exceed (2) the sum of the amount of the Opening Stock and work in progress and the amount of the Uninsured Working Expenses.

Note:  The amounts of the opening and closing stocks and work in progress shall be arrived at in accordance with the Insured’s normal accountancy methods, due provision being made for depreciation.


Uninsured Working Expenses: As stated in the Schedule.

Note: The words and expressions used in this definition shall have the meaning usually attached to them in the books and accounts of the Insured.


Lợi nhuận gộp là (1) tổng số doanh thu bán hàng và số cuối kỳ của hàng hóa thành phẩm và bán thành phẩm trừ đi (2) số dư đầu kỳ của kho thành phẩm và bán thành phẩm và các chi phí không được bảo hiểm


Chi phí không được bảo hiểm được liệt kê trong bản Danh mục.


Ngoài một số thay đổi vị trí điều kiện của định nghĩa không đáng quan trọng, định nghĩa mới có thêm yếu tố Work in Progress.


Rõ ràng bổ sung thêm khái niệm Work in Progress nói lên sự sống động của qui tắc bảo hiểm. Qui tắc bảo hiểm luôn luôn mới, và các nhà đánh giá rủi ro cũng nên thỉnh thoảng tham chiếu những thứ mới tưởng chừng nhỏ nhưng rất quan trọng. Yếu tố này phản ánh thực tế kinh doanh hoặc kinh nghiệm tranh tụng của các công ty bảo hiểm quốc tế. Trở lại vấn đề, tại sao có thêm yếu tố Work in Progress "hàng bán thành phẩm" mà chỉ cách nay vài chục năm yếu tố này không có. Môi trường kinh doanh trong các năm gần đây đã thay đổi khá nhiều, trước đây, một doanh nghiệp sản xuất sản phẩm từ đầu đến cuối và bán hàng kiếm lời. Việc kinh doanh quốc tế cũng chỉ là bán hàng của mình sản xuất theo phương thức FOB hay CIF tùy điều kiện hợp đồng. Mấu chốt là tôi chỉ bán hàng do tôi sản xuất. Hàng bán thành phẩm nằm hoàn toàn trọn vẹn trong dây chuyền từ khi mua vật liệu, chế biến từ khâu đầu đến cuối và ra sản phẩm cuối cùng. Như vậy hàng bán thành phẩm không quan trọng khi tính toán lợi nhuận gộp được bảo hiểm. 


Từ khi có khái niệm Just in Time của Toyota, và sau này Out source, mô hình kinh doanh thay đổi đáng kể. Khái niệm Just in Time là khái niệm doanh nghiệp không có kho vật liệu. Mọi quá trình chế tạo đều đi từ nhà phân phối. Toyota lắp ráp ngay khi có linh kiện và linh kiện phải đến đúng thời điểm yêu cầu của dây chuyền. Mô hình này đã gây khó cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh một thời gian khá dài. Các chuyên viên thẩm định bảo hiểm luôn phải đánh giá các khu vực thắt cổ chai của chuỗi giá trị để đánh giá độ nguy hiểm khi có sự cố. Tuy nhiên, Outsource mới thực sự là khái niệm buộc ABI phải thêm phần "hàng bán thành phẩm" trong qui tắc của mình.


Mô hình kinh doanh hiện đại là một doanh nghiệp cần làm chủ chuỗi giá trị và thường xuyên liên tục duy trì vị trí thống trị của mình trên chuỗi giá trị đó. Apple là ví dụ điển hình. Apple sử dụng bộ xử lý của Samsung trên Iphone, Ipad v.v. nhưng họ vẫn thống trị chuỗi giá trị của họ và trên hết là nhãn hiệu. Tuy nhiên, điểm yếu của việc này là Apple liên tục phải duy trì vị trí của họ, vì chỉ cần một chút sơ sẩy Samsung sẽ sẵn sàng qua mặt. Một doanh nghiệp hiện đại như vậy thường cần một số nhà máy sản xuất các bộ phận quan trọng, nghiên cứu phát triển, nhà máy lắp ráp cuối cùng trước khi tung ra thị trường. Trong chuỗi giá trị của họ, có một số là sản phẩm mua đi bán lại, một số sản phẩm chỉ chế tạo một phần, một số sản phẩm đặc thù được chế tạo hoàn toàn của riêng họ. Như vậy, khi đánh giá lợi nhuận gộp được bảo hiểm, số dư đầu và cuối kỳ của kho hàng thành phẩm và kho hàng bán thành phẩm đều phải được tính đến. (Thà giết lầm còn hơn bỏ sót)


Ngoài ra, cả hai định nghĩa trên đều nhắc tới vấn đề khấu hao, "due provision being made for depreciation". Khấu hao phải được tính đến khi xác định lợi nhuận gộp. Ví dụ một doanh nghiệp có bản chất kho hàng là FIFO tức là hàng nhập vào trước sẽ phải xuất ra trước để bán hoặc để chế biến. Thường thì vòng xoay của hàng từ khi vào đến khi ra có thể dài hay ngắn tùy theo bản chất kinh doanh của doanh nghiệp, càng ngắn càng tốt. Giả sử là 3 tháng, số tiền khấu hao 3 tháng này cần thiết phải giảm trừ vào số dư đầu, cuối kỳ. Nếu doanh nghiệp có mô hình LIFO (hàng nhập trước xuất ra sau cái này hiếm nhưng không phải không có, ví dụ công ty sản xuất than) khấu hao càng quan trọng vì có khi hàng hóa để trong kho cả vài năm. Khoản khấu hao này buộc phải trừ ra khi tính lợi nhuận gộp được bảo hiểm vì đây được coi là rủi ro thương mại. Việc kinh doanh của công ty tiến triển tốt, khấu hao hàng hóa trong kho là thấp. Khủng hoảng kinh tế xảy ra, hàng hóa lưu kho ế ẩm, khấu hao này không nhỏ, và rõ ràng không thuộc trách nhiệm bảo hiểm.


Thực tế tại một số trang thông tin về bảo hiểm tiếng Việt, lại đề xuất công thức tính số tiền bảo hiểm gián đoạn kinh doanh dựa trên lợi nhuận ròng, khá nhiều các trang như vậy và có một số trang có thể nói là thư viện về bảo hiểm (hehe độc giả tự tìm). Cách tính này như đã nói, rất phức tạp và khả năng tính số tiền bảo hiểm bị thiếu là không tránh khỏi.


Một phần quan trọng là các chi phí không được bảo hiểm. Các chi phí không được bảo hiểm mặc dù được hiểu phổ thông là các chi phí biến đổi tỷ lệ thuận theo doanh thu, ví dụ tiền lương công nhân, nguyên vật liệu v.v. Tuy nhiên có một số rất ít các chi phí cố định không được bảo hiểm cần xác định rõ ví dụ như nợ xấu.

Tóm lại lợi nhuận gộp theo định nghĩa bảo hiểm khác với lợi nhuận gộp kế toán một vài điểm cần lưu ý
1 khấu hao kho hàng thành phẩm bán thành phẩm
2 một số chi phí cố định không được bảo hiểm
3 các chi phí người được bảo hiểm tự ghi rõ trong bản Danh mục trong phần chi phí không được bảo hiểm
các chi phí khác chưa nghĩ thêm được.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét